2. CHƯƠNG 2: Phân Tích về Giới / Đức Hạnh (STLA-NIDDESA)

  CHƯƠNG 2: Phân Tích về Giới (STLA-NIDDESA)

[400c] Đức Hạnh là gì? Đặc tính (lakkhana) của nó là gì? Công năng (rasa) của nó là gì? Biểu hiện (paccupatthana) của nó là gì?  Nhân duyên gần (padatthana) sanh khởi nó là gì?  Lợi ích của nó (anisarnsa) là gì ? Ý nghĩa của đức hạnh là gì? Sự khác biệt giữa đức hạnh và sự tuân thủ/ Giới Cấm (vata) là gì? Có bao nhiêu loại đức hạnh? Cái gì sinh ra  [đức hạnh] (samutthana)? Các giai đoạn  khởi sanh, trung gian và viên mãn  của việc tu tập Đức Hạnh là gì? Có bao nhiêu trạng thái/  pháp (dhamma) là chướng ngại cho sự tiến bộ về giới đức? Có bao nhiêu nguyên nhân dẫn đến đức hạnh? Có bao nhiêu loại  đức hạnh? Cái gì thanh lọc/ thanh tịnh hóa đức hạnh? Do có bao nhiêu nguyên nhân mà người ta sống an trú trong đức hạnh?

Đức hạnh được xác định

Hỏi : “Đức hạnh” là gì?

A. Đức hạnh bao gồm:  đức hạnh đến từ Ý Chí/ Ý Nguyện (tư duy/ suy nghĩ) (cetana), đức hạnh đến từ kiềm chế (samvara) và đức hạnh đến từ không vi phạm (avitikkama).

Hỏi: Thế nào là đức hạnh đến từ ý nguyện ( từ duy/ suy nghĩ)?

A. Là ý chí kiên định: "Ta sẽ không làm điều ác. Kẻ làm điều ác sẽ tự chuốc lấy hậu quả xấu xa." 

Hỏi: “Đức tính đến từ kiềm chế” là gì?

A. Là việc tránh xa những điều kiện có thể dẫn đến sự vi phạm giới.


Hỏi: Thế nào là đức hạnh đến từ không vi phạm?

A. Là việc người có đức hạnh thực sự không vi phạm (điều sai trái) bằng hành động và lời nói.

Nói một cách khác, Đức Hạnh là tất cả các trạng thái thiện lành, bao gồm cả việc kiềm chế bản thân không làm điều sai trái và việc chủ động tránh những tình huống có thể dẫn đến sự vi phạm giới.

Như được nói trong Abhidhamma81“Đức hạnh là việc từ bỏ ham muốn dục vọng thông qua sự xuất ly;5 đức hạnh là việc kiềm chế bản thân khỏi ham muốn dục vọng; đức hạnh là ý chí chống lại ham muốn dục vọng; đức hạnh là tự kiềm chế (saṃyama) liên quan đến ham muốn dục vọng; đức hạnh là sự kiềm chế liên quan đến ham muốn dục vọng. [Đức hạnh cũng là] việc từ bỏ ác ý bằng lòng thiện.7 [Đức hạnh là] việc từ bỏ trạo cử, buồn ngủ và lười biếng bằng sự nhận thức về ánh sáng … việc từ bỏ dao động bằng sự không tán loạn. … việc từ bỏ nghi ngờ bằng sự phân định (thấy rõ) các trạng thái tâm/ các Pháp. … việc từ bỏ vô minh bằng trí tuệ. … việc từ bỏ bất mãn bằng hỷ lạc. … việc từ bỏ năm triền ngại bằng tầng thiền thứ nhất. … việc từ bỏ tư duy và suy xét bằng tầng thiền thứ hai. … việc từ bỏ hỷ lạc bằng tầng thiền thứ ba.… việc từ bỏ cảm thọ khổ và lạc bằng tầng thiền thứ tư.8 … việc từ bỏ nhận thức về sắc, thọ, tưởng, hành, thức bằng cách đạt được Thức vô biên xứ (vô lượng không gian.) ….. từ bỏ tưởng về thức vô biên xứ bằng việc đạt được vô lượng thức ... việc từ bỏ nhận thức về nền tảng của hư vô bằng cách đạt được phi tưởng phi phi tưởng xứ . việc từ bỏ nhận thức về thường bằng quán vô thường. … việc từ bỏ nhận thức về hạnh phúc bằng quán khổ. việc từ bỏ nhận thức (tưởng) về ngã bằng quán vô ngã.. từ bỏ lạc thú bằng cách quán về thấy bất lợi/ khổ nạn" ... từ bỏ tham dục bằng quán ly dục / thấy sự vô nhiễm/ từ bỏ (xả) .… việc từ bỏ sanh khởi bằng quán diệt. [… việc từ bỏ thủ chấp bằng quán ly tham.] … việc từ bỏ nhận thức (tưởng) về rắn chắc bằng quán hoại diệt. … việc từ bỏ nhận thức (tưởng0 về tích tập bằng quán suy tàn ...từ bỏ tưởng về sự thường hằng/ ổn định bằng cách quán sanh diệt ... 400c20 từ bỏ các hình tướng bằng cách quán vô hình tướng … việc từ bỏ dục vọng (mong cầu) bằng quán vô dục. việc từ bỏ thủ chấp bằng quán không..  việc từ bỏ thủ chấp vào [bản chất] bằng quán [các trạng thái] bằng tuệ giác cao hơn. … việc từ bỏ thủ chấp vào tà kiến bằng kiến thức và thị kiến (thấy biết) theo thực tế. …... từ bỏ sự bám víu vào nơi đang cư trú [ở cõi dục] bằng cách suy ngẫm về sự bất lợi/ khổ hoạn ... từ bỏ không thấy rõ (Không quán chiếu thấy) bằng quán chiếu (quán Niệm) ... từ bỏ sự dính mắc vào các kiết sử bằng thiền quán sự thay đổi/sinh diệt/ly tham" ... từ bỏ các phiền não dính mắc với các quan điểm/ tà kiến bằng con đường Nhập Lưu ... từ bỏ các phiền não thô thiển bằng con đường Một lần trở lại (Tư Đà Hàm) ... từ bỏ các phiền não vi tế bằng con đường Không quay lại (A Na Hàm) ... từ bỏ tất cả mọi phiền não bằng con đường A-la-hán.

đây là đức hạnh bằng không vi phạm, đức hạnh bằng ý chí (ý nguyện), đức hạnh tự chủ kiểm soát và đức hạnh bằng kiềm chế bản thân. 


Đây được gọi là "đức hạnh."


Đặc tính của đức hạnh

Hỏi: Đặc tính của đức hạnh là gì?

A. Xua tan sự không kiềm chế (Buông Thả) (asamvara) bằng sự kiềm chế. 91

H. Thế nào gọi là “không kiềm chế” (Buông Thả)?

A. Nó có nghĩa là vi phạm các quy tắc (Pháp & Giới) (dhamma).

Có ba loại vi phạm [giới luật]: vi phạm giới Patimokkha; vi phạm giới về vật dụng cần thiết; vi phạm những giới liên quan đến các căn (indriya).

H. Vi phạm giới luật Patimokkha là gì[4ola]

A. Đó là việc vô lương tâm (không biết xấu hổ) (ahiri) và vô liêm sỉ (không biết hối hận) (anottappa) do từ bỏ niềm tin vào Như Lai. .

H. “Vi Phạm giới về vật dụng” là gì?

A. Đó là sống chỉ quan tâm đến vẻ bề ngoài (việc tô điểm cho thân thể)  do từ bỏ sự bằng lòng (Biết Đủ) (santosha).

Hỏi: “Vi phạm Giới về căn” là gì?

A. Đó là không đóng (Phòng Hộ) sáu cửa giác quan do từ bỏ chánh niệm và tỉnh giác / trí tuệ (sati-pañña).'

Ba điều này tạo thành (cấu thành nên) sự không kiềm chế.

Đây gọi là “đặc tính của đức hạnh”. 401a03

Chức năng, sự biểu hiện và nhân gần của đức hạnh

Hỏi: Công Năng, biểu hiện và nguyên nhân gần của nó là gì ?

A. Chức năng của nó là hạnh phúc trong sự vô nhiễm (anavajja-sukha). Biểu hiện của nó là không phiền muộn (asoka). Ba hành động thiện lành (bằng thân, khẩu và ý) là nguyên nhân gần của nó.

Một lần nữa, hoan hỷ (Niềm Vui) (abhippamoda) là chức năng của nó. Không hối hận/ không hỗi tiếc là biểu hiện của nó. Việc bảo vệ/  che chắn (Phòng Hộ) của các căn là nguyên nhân gần gũi của nó.

Lợi ích của đức hạnh

Hỏi. Những lợi ích (ansarnsa) của đức hạnh là gì?

A. Không hối hận (Không Hối Tiếc) là lợi ích của đức hạnh. Như Thế Tôn đã nói với Ananda: “Không hối hận  là lợi ích và mục đích của các đức hạnh lành mạnh.” 93

Hơn nữa, đức hạnh được gọi là “niềm vui hanh phúc của sự vô tội”, "dòng dõi cao quý nhất (gotta)," "kho báu" và "của cải."Đó là nền tảng của chư Phật. Đó là tắm mà không cần nước." Đó là hương thơm (= nước hoa) thấm vào mọi vật . 95 Nó giống như một cái bóng đi theo người. Nó như một chiếc ô che mưa che nắng. Đó là dòng truyền thừa cao quý của các bậc thánh. Đó là sự rèn luyện vô song (Việc học cao thượng nhất). Đó là sự tu tập vô song .Nó là con đường dẫn đến một đích đến tốt đẹp, hạnh phúc (sugati) 96

Nếu một người có đức hạnh, nhờ vào đức hạnh đó, họ đạt được sự không sợ hãi, làm cho bạn bè và người thân trở nên cao quý và được những người cao thượng yêu mến. Bạn bè và người thân của anh ấy dựa vào anh ấy.

Đức hạnh là trang sức lành mạnh. 97 Nó là kim chỉ nam định hướng cho mọi mọi hành vi. Đó là cánh đồng lợi ích. Nó là nơi cúng dường và nơi gặp gỡ những người bạn đồng tu đáng kính (sabrahmacārin?)Người đó không sợ hãi và không thoái lui về các trạng thái thiện lành. Anh ta sẽ hoàn thành tất cả nguyện vọng nhờ vào sự trong sạch (của tâm trí)." Ngay cả khi chết, anh ta cũng sẽ không bị bối rối. Anh ta bước vào [con đường] giải thoát với nỗ lực dễ chịu. Như vậy, lợi ích của đức hạnh là vô vàn.

Xác định thêm về đức hạnh

Hỏi: Đức hạnh có nghĩa là gì?

A.  Đức hạnh có nghĩa là sự mát mẻ, sự tốt đẹp vượt trội (settha), sự thực hành (silana), bản chất nội tại (sabhava), và  sự liên quan đến trạng thái đau khổ và hạnh phúc (sukhadukkhabhavasampayutta?).

Ngoài ra, đức hạnh còn có nghĩa [giống như là một] cái đầu (sira), sự mát mẻ (sitala) 1°1 và bình an (siva).


 Hỏi : Tại sao đức lại có nghĩa là “cái đầu”?


A. Giống như người bị chặt đầu thì không thể dùng các giác quan để  nhặt được đồ vật và do đó vị ấy được gọi là “chết”,Cũng vậy, vị tỳ khưu lấy đức hạnh làm đầu: nếu đầu của vị ấy bị chặt đứt, vị ấy sẽ mất hết tất cả các trạng thái thiện lành (thiện pháp ) —trong Giáo Pháp của Đức Phật (buddhadhamma) điều này có nghĩa là “cái chết”. Đây là ý nghĩa của đức hạnh là “cái đầu”.' 401a20

Hỏi: Tại sao người ta nói đức có nghĩa là “mát mẻ”?

A. Giống như chà xát gỗ đàn hương mát lạnh lên da người nóng sốt sẽ làm hạ nhiệt (dịu cơn nóng trong cơ thể) và thấy dễ chịu (Niềm Vui), thì đức hạnh cũng giống như gỗ đàn hương cực mát có khả năng làm dịu cơn sốt tinh thần phát sinh nơi tâm phạm giới (làm việc sai trái) và tạo ra niềm vui 

Đây là ý nghĩa của đức hạnh là “sự mát mẻ”.

Hỏi: Tại sao nói đức hạnh có nghĩa là “bình an”?

A. Nếu một người có đức hạnh, thái độ của anh ta là đường hoàng. Anh ta không khơi dậy sự sợ hãi. Đây là ý nghĩa của đức hạnh là “bình an”. 103

,

Hỏi. Sự khác biệt giữa [đức hạnh] và sự tuân giữ giới luật (vata) là gì 10 4 401a24

A. Thực hành giới luật, nỗ lực tinh tấn (viriya-samadana) và các khổ hạnh - đây là sự tuân giữ giới luật, chứ không phải đức hạnh. [Tuy nhiên], đức hạnh cũng được gọi là sự tuân giữ giới luật [bởi vì] việc thực hành đức hạnh gọi là kiềm chế (samvara) cũng được gọi là tuân giữ giới luật.


Hỏi. Có bao nhiêu loại đức hạnh?

A. Có ba loại đức hạnh: đức hạnh thiện, hạnh bất thiện và đức hạnh vô ký (abyakata) . 106

Hỏi: Thế nào là thiện hạnh?

A. Nó có nghĩa là những hoạt động lành mạnh về thân và khẩu và chánh mạng. Không có bất lợi (adinava), kết quả (vipaka) là  tốt đẹp.'

Hỏi: Thế nào là ác đức?

A. Nó có nghĩa là những hành động xấu về thân và khẩu và tà mạng. Có bất lợi, kết quả là không an lạc.

Hỏi: Thế nào là đức hạnh vô ký? [40 - Ib]

A. Đó là những hoạt động thân và khẩu không ô nhiễm/không phiền não và lối sống thanh tịnh. Không có bất lợi và không tạo ra nghiệp báo (vipaka).

H. Cái gì tạo ra đức hạnh?

A. Tâm thiện (kusala-citta) tạo ra thiện đức. Tâm bất thiện sẽ tạo ra đức hạnh bất thiện. Tâm vô ký tạo ra đức vô ký.

{{AI Gemini Tóm tắt: Loại tâm ý chi phối hành động sẽ quyết định bản chất của đức hạnh được hình thành.}}

Các giai đoạn trong đức hạnh

Hỏi. [Các giai đoạn] đầu tiên, trung gian và cuối cùng trong đức hạnh là gì?

A. Giữ giới là giai đoạn đầu, không vi phạm giới là giai đoạn trung gian và thấy hoan hỷ khi sống trong giới là giai đoạn cuối cùng của đức hạnh. 

Những trở ngại và nguyên nhân của đức hạnh

Hỏi. Có bao nhiêu pháp/ trạng thái (dhamma) là chướng ngại [để tiến bộ về đức hạnh] và có bao nhiêu nguyên nhân của đức hạnh?

A. Ba mươi bốn trạng thái là chướng ngại cho sự tiến bộ [về giới hạnh] và ba mươi bốn trạng thái là nguyên nhân của đức hạnh, đó là, (1) giận dữ (kodha), 109 (2) bực tức/khó chịu (Cighata), 110 (3) đạo đức giả/giả tạo/ che giấu ( makkha), (4) độc ác (palasa), 111 (5) tham lam/ keo kiệt (macchariya), (6) ghen tị/ đố kị (issa), (7) lừa dối (mdy6), (8) xảo quyệt / nịnh nọt (satheyya), (9) ác ý/ hờn giận (upandha) ), 112 (10) tranh cãi (sarambha), (11) ngã mạn/kiêu căng (mana), (12) đánh giá quá cao/tự cao (atimana), (13)kiêu ngạo (mada), (14) phóng túng/ quên mình (mất sự thận trọng) (pamada), (15) lười biếng (kosajja), (16) tham dục/ dục vọng (Iobha), (17) không bằng lòng/ không biết đủ/bất mãn (asantutthi), (18) không kính & theo người trí (19) mất chánh niệm (mutthasati), (20) ác ngữ (dubbaca), (21) bạn bè xấu/ác (papamitta), (22) ác trí /kiến thức tà vạy (duppanna), (23) tà kiến/ quan điểm sai lầm ​​(papa-ditthi), (24) thiếu nhẫn nại ( akkhanti), (25) không có niềm tin (asadh6), (26) vô lương tâm (ahiri), (27) không biết xấu hổ/vô liêm sỉ(anottappa), (28) đam mê hưởng thụ/hương vị, (29) thân cận người thế tục (samsagga), (30) gần gũi với phụ nữ, (31) không kính trọng thầy và sự tu tập/ rèn luyện, 113 (32) không kiểm soát các căn/giác quan, (33) ) không điều độ trong vấn đề ăn uống (bhojane amattantiutd), (34) không thực hành thiền định (jhana) và trì tụng vào canh đầu sáng sớm và canh cuối /tối muộn của đêm. Ba mươi bốn trạng thái này là những chướng ngại cho sự tiến bộ.

Nếu một người bị cản trở bởi bất kỳ điều nào trong số này thì đức hạnh sẽ không được hoàn thiện. Nếu đức hạnh không được viên mãn thì chắc chắn sẽ bị suy thoái (parihana).

Ba mươi bốn trạng thái đối lập với những [chướng ngại] này được gọi là “nguyên nhân của đức hạnh”.

Các loại đức hạnh

Hỏi: Có bao nhiêu loại đức?

A. Có hai loại, ba loại và bốn loại. 401b13

Hai loại

Q: Hai loại đó là gì?

Trả lời: Giới hạnh về hành vi và giới hạnh về sự kiềm chế (cdritta-sīla & varitta-sīla).

Những hành động được thực hiện bằng thân và khẩu mà Đức Phật xác định là "nên làm" - đây là giới hạnh về hành vi.

Tránh Những hành động qua thân và khẩu mà Đức Phật đã định nghĩa là “không nên làm” – đây là Giới Hạnh qua kiềm chế.'

Giới Hạnh qua Hành Vi có thể đạt được thông qua niềm tin và sự tinh tấn (nỗ lực).

Giới Hạnh qua kiềm chế có thể đạt được thông qua niềm tin và chánh niệm.

Hai Loại thứ hai

Một lần nữa, có hai loại đức hạnh: đức hạnh của việc từ bỏ (pahana) và đức hạnh của việc đạt được (padhana, sampanna).

Cái gì gọi là "đức hạnh của việc từ bỏ "? Đó là khả năng Từ Bỏ những hành vi và suy nghĩ  (tâm) bất thiện/ những điều không lành mạnh.

Cái gì gọi là “đức hạnh của việc đạt được”? Đạt được nhiều trạng thái thiện lành và loại bỏ những điều bất thiện. Giống như ánh sáng xua tan bóng tối, cũng vậy, người từ bỏ ác hạnh sẽ được giải thoát khỏi các đường dữ (duggati).

Nhờ đạt được đức hạnh đúng đắn, người ta có thể đi đến một nơi an vui/ cõi an vui  (sugati). Nhờ từ bỏ điều bất thiện, người ta thành tựu yên ổn trong Đức Hạnh (thitibhaga). 401b20


---------------------------xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx

Thứ ba thứ hai

Và lại nữa, có hai loại đức hạnh: đức hạnh thế gian (lokiya-sila) và đức hạnh Xuất Thế Gian (lokuttara-sila).

Đức hạnh Xuất Thế gian là gì? Đức Hạnh đạt được nhờ kết quả của Thánh Đạo – đây là công đức siêu thế. Còn lại là “đức hạnh thế gian”.

Nhờ sự hoàn thành đức hạnh thế tục mà có sự an lạc/ đẩy đủ. Nhờ sự viên mãn đức hạnh siêu thế mà có tự do giải thoát.

Thứ tư thứ hai

401b23 Và lại nữa, có hai loại đức hạnh: Đức Hạnh có thể đo lường được (pamana) và Đức Hạnh không thể đo lường được (appamana).

Phẩm hạnh của người của người chưa thọ (giữ) giới đủ (anupasampannasila) được gọi là “có thể đo lường được”.

Phẩm hạnh của người đã thọ (giữ) giới đủ  (upasampannasila) theo định nghĩa của Đức Phật được gọi là “vô lượng/ không thể đo lường được”.

thứ năm hai

Và lại nữa, có hai loại đức hạnh: Đức Hạnh có giới hạn (pariyanta) và Đức Hạnh  không giới hạn (apariyanta).”

Phẩm hạnh có giới hạn là gì? Nếu một người đàn ông vì lợi danh thế gian (labha), vì danh tiếng, vì họ hàng thân thích, vì thân thể, vì mạng sống mà vi phạm giới đã thọ nhận, thì phẩm hạnh của người đó có lợi danh thế gian là giới hạn, có danh tiếng là giới hạn, [có họ hàng thân thích là giới hạn,] có thân thể là giới hạn, có mạng sống là giới hạn.

Phẩm hạnh không giới hạn là gì? Trong trường hợp này, vị Tỳ-khưu thậm chí không khởi lên ý nghĩ (dục vọng) vi phạm giới đã thọ nhận một cách hợp pháp vì lợi dưỡng, vì danh tiếng, vì thân thể và vì mạng sống. [401c] Vậy thì làm sao vị ấy vi phạm? Đây là ý nghĩa của "phẩm hạnh không giới hạn".


thứ sáu hai


Và một lần nữa, có hai nhóm phẩm hạnh: có nhân duyên (sanissita) và không nhân duyên (anissita).

Phẩm hạnh có nhân duyên là gì? Phẩm hạnh liên quan đến một sự tồn tại may mắn (bhava) phụ thuộc vào lòng tham. Phẩm hạnh liên quan đến việc tuân giữ giới luật và các nghi lễ (silabbata) phụ thuộc vào quan điểm. Phẩm hạnh liên quan đến việc tự khen ngợi và chỉ trích người khác phụ thuộc vào sự kiêu căng (mana). Đây là phẩm hạnh có nhân duyên.

Phẩm hạnh không nhân duyên là gì? Nếu nó đáp ứng đủ điều kiện (sambhara) để giải thoát thì đó là phẩm hạnh không nhân duyên.

Phẩm hạnh có nhân duyên được những người không trí tuệ mong muốn. Phẩm hạnh không nhân duyên được những người trí tuệ mong muốn.


Thứ Bảy hai

Và một lần nữa, có hai loại phẩm hạnh: phẩm hạnh của nền tảng của đời sống phạm hạnh (ādibrahmacariyaka) và phẩm hạnh của các giới nhỏ (khuddhanukhuddhaka-sikkhapada).

Phẩm hạnh của nền tảng của đời sống phạm hạnh là gì?

Phẩm hạnh bao gồm hành động đúng đắn (chánh nghiệp), lời nói đúng đắn (chánh ngữ) và mạng sống đúng đắn (Chánh Mạng) (sammā kammanta, sammā vāca, sammāājīva) - đây được gọi là "phẩm hạnh của nền tảng của đời sống phạm hạnh."

Phẩm hạnh của các giới còn lại được gọi là "phẩm hạnh của các giới nhỏ/ thứ yếu."


thứ tám hai

Và một lần nữa, có hai loại phẩm hạnh: liên quan đến tâm và không liên quan đến tâm.

Loại liên quan đến tâm là gì? Nó có nghĩa là "phẩm hạnh của nền tảng/ căn bản đời sống phạm hạnh."

Loại không liên quan đến tâm là gì? Là các giới nhỏ còn lại.

Đối với các giới liên quan đến nền tảng/ căn bản của đời sống phạm hạnh, một đệ tử (savaka) là người có phẩm hạnh kiên định và vững chắc. Đối với các giới nhỏ, vị ấy có thể vi phạm và có thể sám hối. Tại sao? Đức Phật không nói rằng đây là trở ngại cho việc giải thoát.


thứ chín hai

Và một lần nữa, có hai loại phẩm hạnh: phẩm hạnh không vi phạm và phẩm hạnh thanh tịnh.

Phẩm hạnh không vi phạm là gì? Là phẩm hạnh của bậc Thanh văn (savaka).

Phẩm hạnh thanh tịnh là gì? Là phẩm hạnh của các Đức Phật và các vị Độc Giác (Paccekabuddha).


thứ mười hai

Và một lần nữa, có hai loại phẩm hạnh: phẩm hạnh có giới hạn thời gian (kala-pariyanta) và phẩm hạnh hành trì cho đến khi tan rã thân thể (apana-kotika).

Phẩm hạnh có giới hạn thời gian là gì? Là những gì được thực hiện trong một thời gian ngắn, tạm thời và không liên quan đến thân thể và mạng sống.

Phẩm hạnh hành trì cho đến khi tan rã thân thể là gì? Là những gì được thực hiện từ lời nguyện đầu tiên [của việc thọ giới] với thầy cho đến hết cuộc đời.

Kết quả (vipaka) của đức hạnh có thời hạn thì có thời hạn (kalika). Kết quả của đức hạnh [được thực hiện] cho đến khi thân hoại mạng chung là vô thời hạn (akalika).



Ba loại

Ba loại là gì? Ba điều đầu tiên: Cụ thể là [đức hạnh] không vi phạm nhờ ngăn chặn điều ác, không vi phạm nhờ giữ [giới luật], và không vi phạm nhờ từ bỏ. 126

Thế nào là “bất vi phạm nhờ ngăn chặn các điều ác”? Ngay cả khi một người chưa thọ nhận [giới luật] một cách chính thức, người ta cũng đã tuân giữ chúng. Không có căn cứ [ vi phạm], tâm không sinh khởi ý nghĩ vi phạm. Đây gọi là “ngăn chặn điều ác trước khi vi phạm”. 401c19

Thế nào là “không vi phạm nhờ giữ [giới luật]”? Khi đã thọ giới, từ lần thọ giới đầu tiên cho đến khi chết không vi phạm lại. Điều này được gọi là “không vi phạm do thọ trì [giới luật].”

Thế nào là “không vi phạm nhờ từ bỏ”? Qua Thánh Đạo, các bậc Thánh từ bỏ mọi nguyên nhân gây ra điều ác. Đây gọi là “bất vi phạm do từ bỏ.”



Thứ ba thứ hai

Lại có ba loại phẩm hạnh như vậy: Giữ gìn giới hạnh (paramattha-sila), không bám giữ giới hạnh, giới hạnh được an trú (patippassaddha-sila).

Giữ gìn giới hạnh là gì? Giới hạnh được duy trì với tà kiến và lòng tham.

Không bám giữ giới hạnh là gì? Giới hạnh lành của người thường (puthujjana) là nhân duyên (sambhara) để bước vào con đường - đây là "không bám giữ giới hạnh".

Giới hạnh được an trú là gì? Giới hạnh của các vị A La Hán.



Ba thứ ba

Và một lần nữa, có ba nhóm phẩm hạnh [về nguồn gốc]: dựa vào thế gian làm nền tảng, dựa vào bản thân làm nền tảng và dựa vào Pháp làm nền tảng.

Phẩm hạnh dựa vào thế gian làm nền tảng là gì? Khi một người vì sợ hãi, loại bỏ các trạng thái bất thiện vì lo lắng cho danh tiếng của mình trên thế gian - đây được gọi là "phẩm hạnh dựa vào thế gian làm nền tảng."

Phẩm hạnh dựa vào bản thân làm nền tảng là gì? Khi một người vì sợ hãi, loại bỏ các trạng thái bất thiện vì lo lắng cho thân thể và mạng sống của mình - đây được gọi là "phẩm hạnh dựa vào bản thân làm nền tảng."

Phẩm hạnh dựa vào Pháp làm nền tảng là gì? Khi một người vì sợ hãi, loại bỏ các trạng thái bất thiện vì lo lắng cho Chánh Pháp - đây được gọi là "phẩm hạnh dựa vào Pháp làm nền tảng."



Ba Thứ tư

Và một lần nữa, có ba loại phẩm hạnh [402a]: Phẩm hạnh có động cơ bất thiện (visama-panihita), phẩm hạnh có động cơ thiện xảo (sama-panihita) và phẩm hạnh không động cơ (apparjihita).

Phẩm hạnh có động cơ bất thiện là gì? Khi thọ giới với mục đích hành hạ người khác - đây được gọi là "phẩm hạnh có động cơ bất thiện".

Phẩm hạnh có động cơ thiện xảo là gì? Thọ giới vì hạnh phúc trong đời hiện tại và vì hạnh phúc giải thoát trong tương lai - đây được gọi là "phẩm hạnh có động cơ thiện xảo".

Phẩm hạnh không động cơ là gì? Một người thọ giới mà không hối hận/ không hối tiếc và thọ giới vì lợi ích của người khác - đây được gọi là "phẩm hạnh không động cơ".


thứ năm ba

Và một lần nữa, có ba loại phẩm hạnh như vậy: Phẩm hạnh thanh tịnh (visuddha), phẩm hạnh bất tịnh (avisuddha) và phẩm hạnh nghi ngờ (vematika).

Phẩm hạnh thanh tịnh là gì? Phẩm hạnh thanh tịnh có được nhờ hai nhân duyên: Thứ nhất là không phạm lỗi. Thứ hai là sám hối sau khi phạm lỗi - đây được gọi là "phẩm hạnh thanh tịnh".

Phẩm hạnh bất tịnh là gì? Phẩm hạnh bất tịnh cũng có được nhờ hai nhân duyên: Thứ nhất là cố ý phạm lỗi. Thứ hai là không sám hối sau khi phạm lỗi - đây được gọi là "phẩm hạnh bất tịnh".”.

Phẩm hạnh nghi ngờ là gì? Phẩm hạnh nghi ngờ có được nhờ ba nhân duyên: Thứ nhất là do không phân biệt được căn bản/nền tảng (của hành vi cấu thành lỗi vi phạm, vatthu). Thứ hai là không phân biệt được cấp độ của lỗi vi phạm. Thứ ba là không phân biệt được hành vi vi phạm - đây được gọi là "phẩm hạnh nghi ngờ".

Nếu như phẩm hạnh của người thiền hành không thanh tịnh, [cảm thấy] hổ thẹn sâu sắc, họ nên sám hối [cho lỗi lầm], và sẽ có được hạnh phúc của sự thanh tịnh. Nếu có sự nghi ngờ thì nên tìm hiểu về lỗi vi phạm và sẽ có được sự an lạc (phasu)



Thứ Sáu Ba

Và một lần nữa, có ba loại phẩm hạnh: phẩm hạnh của người đang học (sekha-sila), phẩm hạnh của người không còn học (asekha-sila) và phẩm hạnh không thuộc về người đang học cũng không thuộc về người không còn học (nevasekhanasekha-sila).

Phẩm hạnh của người đang học là gì? Là phẩm hạnh của bảy hạng người đang học Phật pháp.

Phẩm hạnh của người không còn học là gì? Là phẩm hạnh của vị A La Hán.

Phẩm hạnh không thuộc về người đang học cũng không thuộc về người không còn học là gì? Là phẩm hạnh của người phàm phu.


thứ bảy ba

Và một lần nữa, có ba loại phẩm hạnh như vậy: Phẩm hạnh do sợ hãi (bhaya), phẩm hạnh do lo lắng và phẩm hạnh do ngu dốt (moha).

Phẩm hạnh do sợ hãi là gì? Một người vì sợ hãi quả báo nên không dám làm điều ác - đây được gọi là "phẩm hạnh do sợ hãi".

Phẩm hạnh do lo lắng là gì? Một người nào đó lo lắng khi nghĩ đến việc xa cách người thân; và vì lo lắng này, họ không làm điều ác - đây được gọi là "phẩm hạnh do lo lắng".

Phẩm hạnh do ngu dốt là gì? Có người tuân theo "phẩm hạnh của bò" (go-sila) hoặc "phẩm hạnh của chó" (kukkura-sila) - đây được gọi là "phẩm hạnh do ngu dốt". Nếu một người thực hành "phẩm hạnh do ngu dốt", họ sẽ trở thành bò hoặc chó. Nếu không thì cũng  sẽ rơi vào địa ngục. 137





thứ tám ba


Và một lần nữa, có ba loại phẩm hạnh: thấp (hīna), trung bình (majjhima) và Cao thượng (panīta).

Phẩm hạnh thấp là gì? Giữ gìn giới hạnh (paramattha) với nhiều tham lam, tham lam quá mức, tham lam lớn và bị chi phối bởi sự bất mãn (as سانتുٹهی - asantutthi) - đây là phẩm hạnh "thấp".

Phẩm hạnh trung bình là gì? Giữ gìn giới hạnh với lòng tham lam tinh tế và bị chi phối bởi sự mãn nguyện - đây được gọi là phẩm hạnh "trung bình".

Phẩm hạnh cao thượng" là gì? [Đức hạnh] không bị chấp thủ và không bị ảnh hưởng bởi sự thỏa mãn—điều này được gọi là đức hạnh “Cao Thượng.

Do thực hiện đức hạnh thấp kém mà người ta tái sinh làm người; nhờ thành tựu đức hạnh trung bình người ta tái sinh thành một vị trời; thông qua việc thực hiện đức hạnh cao hơn người ta đạt được tự do.



Bốn Loại

Lại nữa, có bốn loại đức hạnh. 

Bốn Đầu tiên

Đức Hạnh dự phần thoái chuyển (hanabhagiya-sila), Đức Hạnh dự vào sự an trụ (thitibhagiya-sila), Đức Hạnh dự vào sự Phân Biệt (visesabhagiya-sila), Đức Hạnh dự vào Tuệ Giác (nibbedhabhabhagiya-sila). 138

  • Phẩm hạnh tham dự thoái chuyển (hanabhagiya-sila): Khi một người không loại bỏ những chướng ngại trên đường tu; không siêng năng tinh tấn; cố tình phạm lỗi, và sau khi phạm lỗi lại che giấu - đây được gọi là "phẩm hạnh tham dự thoái chuyển".
  • Phẩm hạnh tham dự an trụ (thitibhagiya-sila): Khi một người giữ gìn giới hạnh và không phóng tâm, nhưng không sinh khởi trí tuệ Niết bàn - đây được gọi là "phẩm hạnh tham dự an trụ".
  • Phẩm hạnh tham dự phân biệt (visesabhagiya-sila): Khi một người hoàn thành cả giới hạnh và định, không phóng tâm, nhưng không sinh khởi trí tuệ Niết bàn - đây được gọi là "phẩm hạnh tham dự phân biệt".
  • Phẩm hạnh tham dự tuệ giác (nibbedhabhagiya-sila): Khi một người hoàn thành cả giới hạnh và định, không phóng tâm, và sinh khởi trí tuệ Niết bàn - đây được gọi là "phẩm hạnh tham dự tuệ giác".


Bốn thứ hai

Và một lần nữa, có bốn loại phẩm hạnh: phẩm hạnh của tỳ-khưu (bhikkhu-sila), phẩm hạnh của tỳ-khưu-ni (bhikkhuni-sila), phẩm hạnh của người chưa thọ giới đủ (anupasampanna-sila) và phẩm hạnh của người tại gia (ockita-vasana-sila).

Phẩm hạnh của tỳ-khưu là gì? Giới Patimokkha (pātimokkha-samvara) - đây là "phẩm hạnh của tỳ-khưu."

Phẩm hạnh của tỳ-khưu-ni là gì? Giới Patimokkha - đây là "phẩm hạnh của tỳ-khưu-ni."

Mười giới của sa-di nam và nữ (sāmanera-sāmaneri-dasa-sīla) và giới của nữ thức xoa (sikkhamana-sīla) - được gọi là "phẩm hạnh của người chưa thọ giới đủ."

Năm giới và tám giới của nam nữ cư sĩ tại gia - được gọi là "phẩm hạnh của người tại gia."


Bốn Thứ ba

Và một lần nữa, có bốn loại phẩm hạnh: Phẩm hạnh tự nhiên (pakati-sila), phẩm hạnh theo phong tục (acara-sila), phẩm hạnh là một phẩm chất thiết yếu (dhammata-sila) và phẩm hạnh do nhân quá khứ (pubbahetuka-sila).

Phẩm hạnh tự nhiên là gì? Phẩm hạnh của cõi Uttarakuru - đây được gọi là "phẩm hạnh tự nhiên".

Phẩm hạnh theo phong tục là gì? Hành vi tuân theo các quy tắc của dòng họ, quốc gia, giáo phái, v.v. - đây được gọi là "phẩm hạnh theo phong tục".

Phẩm hạnh là một phẩm chất thiết yếu là gì? Phẩm hạnh của mẹ Bồ-Tát khi Ngài nhập thai - đây được gọi là "phẩm hạnh là một phẩm chất thiết yếu".

Phẩm hạnh do nhân quá khứ là gì? Phẩm hạnh của Bồ-Tát (= Đức Phật khi chưa thành đạo) và ngài Maha Kassapa được gọi là "phẩm hạnh do nhân quá khứ".


Bốn thứ tư

Và một lần nữa, có bốn loại phẩm hạnh: Phẩm hạnh như là phẩm hạnh (sila-sila), Khởi sanh của phẩm hạnh (sila-samutthana), Tịch diệt của phẩm hạnh (sila-nirodha) và Con đường dẫn đến tịch diệt của phẩm hạnh (sila-nirodha-gāmini-patipadā).

Phẩm hạnh như là phẩm hạnh là gì? Có hai loại: Phẩm hạnh lành mạnh và phẩm hạnh không lành mạnh - đây được gọi là "phẩm hạnh như là phẩm hạnh".

Sự Khởi sanh của phẩm hạnh là gì? Một Tâm ý Thiện (kusala-citta) khởi sanh ra phẩm hạnh lành mạnh; một Tâm Ý bất thiện khởi sanh ra phẩm hạnh không lành mạnh.

Sự Tịch diệt của phẩm hạnh là gì? Phẩm hạnh không lành mạnh chấm dứt thông qua việc thành tựu phẩm hạnh lành mạnh; phẩm hạnh lành mạnh chấm dứt thông qua việc thành tựu A La Hán.

Con đường dẫn đến tịch diệt của phẩm hạnh là gì? Cụ thể là Bốn Chánh Cần (tứ sammappadhāna) - đây được gọi là "con đường dẫn đến tịch diệt của phẩm hạnh".

Phân tích này được giải thích rõ ràng như sau: Khi bốn trạng thái này theo nghĩa tinh tấn (viriya) và không [theo nghĩa] quan sát đúng về phẩm hạnh, thì được gọi là Chánh Cần.


Bốn thứ năm 402b19

Và lại nữa, có bốn loại đức hạnh: giới hạnh uy nghi kiềm chế Patimokkha, giới đức về Chánh Mạng (sinh kế trong sạch) , đức hạnh về sự kiềm chế (phòng hộ) các căn, giới đức liên quan đến các vật dụng cần thiết.

{{AI Gemini Và một lần nữa, có bốn loại phẩm hạnh:

  • Phẩm hạnh giới Patimokkha (pātimokkha-samvara-sila): Là phẩm hạnh tuân theo giới luật Patimokkha.
  • Phẩm hạnh thanh bạch mạng sống (ājīva-parisuddhi-sila): Là phẩm hạnh kiếm sống trong sạch, không trái với đạo đức (chánh mạng).
  • Phẩm hạnh hộ trì các căn (indriya-samvara-sila): Là phẩm hạnh kiểm soát các giác quan, không buông thả theo ham muốn.
  • Phẩm hạnh liên quan đến các vật dụng cần thiết (paccaya-sutta-upatthita-sila): Là phẩm hạnh sử dụng các vật dụng cần thiết một cách hợp lý và thanh tịnh.}}


Hỏi. “Đức hạnh kiềm chế Patimokkha” (patimokkhasamvara-sila) là gì?

A. "Ở đây", một vị tỳ khưu sống an trú bởi uy nghi Chế Ngự của Patimokkha, Chánh Hạnh và Hành Xứ Đầy Đủ, thấy được sự sợ hãi trong những lỗi lầm nhỏ nhặt. vị ấy học tập và tự rèn luyện mình theo các giới luật cần phải học. 151

“Ở đây” có nghĩa là trong lời dạy của Đạo sư dạy (satthu-sasana). 152

“Bhikkhu” có nghĩa là “người bình thường tốt bụng” (kalyana-puthujjana). Ngoài ra nó còn có nghĩa là “người đang học” (sekha), và “bậc không học, không thể thoái chuyển” (akuppa/anenjadhamma). 153

“Patimokkha”: đây là đức hạnh, đây là nền tảng, đây là sự khởi đầu, đây là hạnh kiểm, đây là sự tự chủ, đây là sự kiềm chế, đây là sự giải thoát (mokkha) và đây là sự hết ràng buộc (pamokkha). Những trạng thái này là lối vào (mukha) để đạt được những Pháp Lành  (trạng thái lành mạnh) — điều này được gọi là “Patimokkha”. 154

“uy nghi” là “không vi phạm bằng hành động của thân và khẩu.”

“Chế Ngự” có nghĩa là “có được sự Chế Ngự Patimokkha”. 155

“An trú” có nghĩa là “tự chủ trong bốn oai nghi”. 156




“Chánh Hạnh và Hành Xứ đầy đủ” nghĩa là : giữ gìn oai nghi (canh phòng) trong tất cả mọi hành động  (acaragocara-sampanna). 


[Ở đây] có Hành vi (đúng đắn) (acara) và có hành vi sai trái (anacara). 157

H. “Hành vi sai trái” là gì? [402c].

A. Ở đây, Tỷ-kheo sống bằng tà mạng, bố thí gậy tre, hoa, lá, quả, tăm và bột tắm, hoặc rao tin tốt xấu (về người khác)hoặc tán tỉnh; hoặc tâng bốc để đề cao bản thân; hoặc phóng tâm rong ruổi khắp nơi để mời người tới hội họp; hoặc những hành động khác (sống theo tà mạng) như vậy bị Đức Phật khiển trách—điều này được gọi là “hành vi sai trái”.(tà hanh) 158

Lại nữa, có hai loại “hành vi sai trái”: hành vi sai trái về thân và về lời nói.


 Hỏi: Thế nào là thân hành ác (Hành vi sai trái về thân)?

A. Có vị tỳ khưu đi vào giữa Tăng chúng với lòng kiêu ngạo, chen lấn qua các vị trưởng lão (trưởng lão); y đứng hoặc ngồi xuống trước mặt họ, hoặc đi tới phía trước và ngồi trên ghế cao, đẩy các vị cao tăng xuống chỗ thấp hơn, hoặc ngồi xuống chen lấn họ Vỗ vai họ, anh cười nhạo họ. Trong khi các trưởng lão đi chân trần, anh ta lại đi dép. Khi các tu sĩ trưởng lão đi trên con đường thấp hơn, anh ta đi trên con đường cao hơn. Theo nhiều cách, anh ta coi nhẹ các trưởng lão và gây phiền nhiễu. Anh ta giành lấy chỗ tốt cho các sư đệ, đùn đẩy chỗ xấu cho bậc lớn hơn. Dù Không được phép, anh ta đốt củi lửa trong nhà tắm và đóng chặt cửa. Hoặc khi đến bờ nước [để tắm], anh ấy luôn vào [nước] trước [các vị cao tăng]. Anh ta kì cọ và vặn vẹo cơ thể một cách thô tục. Khi đến nhà người khác, người ấy đột ngột đi vào bằng lối sau hoặc lối trước, rồi đi vào và ngồi một cách bừa bãi; hoặc [anh ta bước vào] những nơi được che chắn dành cho phụ nữ và người giúp việc trẻ, và anh ta vuốt đầu trẻ em. Những hành vi sai trái như vậy được gọi là “thân hành vi sai trái”. (tà hạnh qua thân) 159

Hỏi: “Lời nói sai trái” là gì? 402c14

A.Ở Đây, một vị tỳ khưu trong tâm không có lòng cung kính. Không xin phép các vị thầy lơn tuổi, y thuyết Pháp hoặc tụng đọc Patimokkha. Hoặc y vừa vỗ vai người khác vừa nói chuyện 16° Hoặc anh ta vào ngôi nhà lạ và hỏi người nữ gia chủ tên họ là gì, có vật thực gì không, hiện tôi đang muốn ăn. Những lời nói như vậy là “lời nói sai trái”. 161

Mọi hành vi vô đạo đức/bất thiện (dussilya) đều là hành vi sai trái/ tà hạnh162

H. "Hành vi (đúng đắn)" là gì?

A. Nó trái ngược với “hành vi sai trái”. Vị tỳ khưu có lòng cung kính, có lương tâm và hổ thẹn, thành tựu uy nghi không chỗ thiếu sót. Anh ta điềm tĩnh, giữ gìn bảo vệ các giác quan (phòng hộ các căn) của mình và điều độ trong việc ăn uống. Ngài không bao giờ ngủ vào canh đầu và canh cuối của đêm. Người ấy có trí tuệ và hài lòng với ít  (biết đủ). Anh ta không đam mê những chuyện thế gian/ không dính líu đến chuyện đời thường. Anh nỗ lực tu tập (tinh tấn mạnh mẽ), 402c21 và vô cùng tôn trọng các bạn học của mình. 163 Đây được gọi là "hành vi (đúng đắn) "164


+ Hành Xứ (“Nơi Trú Xứ thường hay qua lại”) (gocara): Có nơi trú xứ (thích hợp) và nơi trú xứ không thích hợp (agocara).

Q. “Trú xứ không phù hợp” là gì?

A. “Có vị tỳ khưu nào đó đi vào chỗ ở của gái điếm (gái mại dâm), chỗ ở của góa phụ, chỗ ở của cô gái già, chỗ ở của thái giám, chỗ ở của một vị tỳ khưu ni, hoặc quán rượu, thân mật với vua chúa, quan chức, tu sĩ ngoại đạo và các loại bạn bè phi pháp, không có niềm tin và sùng kính, không bao giờ đem lại lợi ích cho bốn hội chúng  rất đáng ghê tởm, đây gọi là trú xứ không phù hợp"166

Như Đức Phật đã dạy: “Tỳ kheo     [không nên] đến nơi cư trú bất tịnh (abrahmacariya-gocara?)." 167

Hỏi: “Khu trú xứ bất tịnh” là gì?

A. Một nhà chứa (mua bán nữ sắc). 168


Lại nữa, có ba loại “trú xứ thường lui tới” (Thích Hợp): trú xứ để hỗ trợ (upanissaya-gocara), trú xứ để bảo vệ (arakkha-gocara), trú xứ như sự kết nối chặt chẽ (upanibandha-gocara). [403a]

Q. “trú xứ hỗ trợ/ trú xứ là chỗ dựa” là gì?

A. Đó là một người bạn tốt có đầy đủ các đức tính của mười công đức (dasakatha vatthuguna -samannagata-kalyanamitta), 169 tùy theo những đức tính này, một người nghe được điều mình chưa nghe và điều đã được nghe được tiến triển/ củng cố thêm, để giúp vượt qua nghi ngờ, có chánh kiến ​​và làm cho [tâm mình] có niềm tin tưởng sâu xa; và tự rèn luyện mình theo Giáo Pháp, có niềm tin lớn lao, siêng năng tinh tấn và tăng trưởng giới hạnh, học thức, bố thí, trí tuệ và chánh niệm. Đây gọi là “trú xứ như hỗ trợ”.

Q. “trú xứ như nơi bảo vệ/ che chở” là gì?

A. Có vị tỳ khưu nào cần đi vào giữa các nhà hay vào làng, vị ấy nhìn xuống đất và không nhìn xa hơn một sải chân phía trước (tầm 2 thước); 403a06 phong thái của vị ấy trang nghiêm, và được mọi người kính trọngvị ấy không nhìn voi, ngựa, xe, hay đàn ông, đàn bà đi lại và gặp gỡ nhau, hay nhìn vào cung điện, hay nhìn vào đường phố và ngõ hẻm. Vị ấy không nhìn lên nhìn xuống, không nhìn quanh bốn phương.” Đây được gọi là "trú xứ như một sự bảo vệ."

Q. "trú xứ là nơi bắt buộc (ràng buộc)" là gì?

A. Như Đức Phật đã nói: “Vị tỳ khưu nhìn vào lãnh vực tổ tiên của mình, [cụ thể là bốn niệm xứ].” Đây gọi là “trú xứ bắt buộc (trói buộc)"

Đây được gọi là "Trú Xứ Thích Hợp."

Bởi vì được trang bị cho những phẩm hạnh và Trú Xứ Thích Hợp  này nên được gọi là “Có Chánh hạnh và Trú Xứ Đầy Đủ”. 403a10



Thấy Dè Chừng trong những lỗi nhỏ" :Tôi đồng ý với tất cả các Giới Luật (quy tắc rèn luyện)” (thấy Dè Chừng cả những lỗi nhỏ có thể mắc phải khi tu học)có nghĩa là “thấy nỗi sợ hãi trong những lỗi nhỏ”.

Lại có người nói: “Sự phát sinh của tâm bất thiện cũng được gọi là ‘một lỗi nhỏ’. [Người ta nên] trốn tránh sự phát sinh của tâm lỗi lầm vi tế này. Sự bất lợi/ tai họa (adinava) của lỗi nhỏ gây ra khiến người ta sợ hãi nên xa lìa tội lỗi.”

Điều này được gọi là “nhìn thấy nỗi sợ hãi trong những lỗi lầm nhỏ nhặt nhất”.



“Hãy học tập rèn luyện bản thân theo các quy tắc đào tạo/ giới luật mà mình cần phải học”:

 “Quy tắc đào tạo” nghĩa là gì ?

Nó có nghĩa là sự Chế Ngự bằng bảy nhóm uy nghi mà người ta cần  tuân theo tất cả [quy tắc rèn luyện].

Điều này được gọi là “tự rèn luyện mình theo các quy tắc rèn luyện mà mình đã được học (ở trên)”.

Đây gọi là “đức hạnh kiềm chế Patimokkha”.



Đức hạnh thanh tịnh của sinh kế

Hỏi. “Đức hạnh thanh tịnh của sinh kế (Kế sinh nhai) ” (ajivaparisuddhi-sila) là gì? 403a16

A. Có nghĩa là không phạm tội tà mạng.


Hỏi. Tà mạng là gì?

A. Đó là Âm Mưu: 74 nịnh nọt: 75 bóng gió, ức hiếp, theo đuổi lợi ích. 



Hỏi. "âm mưu" là gì?

A. Có ba cơ sở của việc “âm mưu”.

Có một vị tỳ khưu có ý định, thiết kế và mong muốn có được một bộ bốn vật dụng khác. Anh ta giả vờ có thái độ đàng hoàng và quảng cáo bản thân. Vì nuôi dưỡng những ham muốn xấu xa và tham lam lợi ích (vật chất), vị ấy từ chối y và đồ ăn cao cấp làm như thể không muốn có được chúng và ra vẻ đang tìm kiếm những y phục thô lậu, thấp kém. Sau đó, ra vẻ vì lòng bi mẫn đối với người khác, vị ấy nhận những vật dụng cần thiết (vật dụng cao cấp). Đây được gọi là "âm mưu thiết kế các vật dụng cần thiết". 176

Có một vị tỳ khưu có những ham muốn xấu xa. Tham lam lợi ích, anh ta giả vờ có cách cư xử trang nghiêm, mong muốn được nhận cúng dường [anh ta nói]: “Tôi đã đắc thiền” và muốn được cúng thí để tụng Kinh – đây gọi là “âm mưu của người bị trục xuất”.

Có vị tỳ khưu tham lamnói dối, nói với mọi người rằng: “Tôi đạt được thánh pháp”, “Tôi sống ẩn dật”, “Tôi thực hành thiền định”, hay “Lời giảng của tôi thâm sâu và vi tế”, và ra vẻ hơn người (uttarimanussa). Vì vậy, vì ham muốn lợi ích, anh ta quảng cáo rộng rãi về bản thân. Đây được gọi là "âm mưu của kẻ lừa đảo."'

403a26 “Tâng bốc/ nịnh hót” (lapana) có nghĩa là, tùy theo mục đích của tâm, người ấy giả tạo để kiếm lợi: nói điều tốt lành, lấy lòng người khác [bằng cách nói] tốt hay xấu [ người khác], và tán tỉnh, diễu cợt khôi hài (vui đùa). Người ta khoác lên vẻ bề ngoài đẹp đẽ, dễ chịu để thu lợi cho mình. Điều này được gọi là "tâng bốc/ nịnh hót."

H. "phỉnh nhờ" là gì?

A. Vị ấy thuyết pháp cho người giàu có vì mong nhận được lợi ích vật chất, nhưng không phải để phục tâm mình. Điều này được gọi là "Phỉnh nhờ." [403b]

“Bắt nạt”: vì lợi ích mà mắng mỏ người khác, làm cho họ sợ mình, hoặc vu khống; hoặc anh ta tấn công, gieo hiềm khích giữa mọi người để khiến mọi người khiếp sợ.

H. “Theo đuổi lợi ích bằng lợi ích” là gì?

A. Anh ấy thích cúng dường nhỏ để mong có được lợi ích lớn. Điều này được gọi là “theo đuổi lợi ích bằng lợi ích”.

Những hành động xấu ác này cấu thành tà mạng.

Và lại nữa, có [một giáo lý khác liên quan đến] tà mạng: [Đó là] bố thí gậy tre , hay hoa, lá và quả, hay que tăm và bột tắm; hoặc đó là để bói toán , giải thích giấc mơ, hoặc đưa ra dự đoán chiêm tinh; hoặc để giải thích tiếng kêu của các loài chim và động vật, v.v.; hoặc phỏng đoán về điềm lành hay điềm dữ của dấu chân; hoặc hóa giải lời nguyền; hoặc cúng bằng lửa, hoa [v.v.]; hoặc bán rong như một thương gia du lịch; hoặc hỗ trợ các sĩ quan quân đội [bằng cách đưa ra dự đoán]; hoặc để mài vũ khí.'

Những [nghề nghiệp] khác nhau như vậy được gọi là “tà mạng”. Việc không phạm những điều này được gọi là “giới hạnh thanh tịnh [sinh kế].”(chánh mạng)


Đức hạnh kiềm chế các căn (indriyasanwara-sila)

Hỏi: “Đức hạnh kiềm chế (phòng hộ) các căn” là gì?

A. Nếu khi nhìn thấy sắc, nghe âm thanh, ngửi mùi, nếm vị hay xúc chạm đến vật, nghĩ một ý nghĩ tới Pháp (sự vật/ sự việc) người ấy quyết tâm không phạm (vi phạm/ vướng mắc) đối với các dấu hiệu phiền não (ô nhiễm) của nó.' ° Đây gọi là “đức hạnh kiềm chế (phòng hộ) các căn.” 403b10

Đức hạnh kiềm chế các căn này được thực hiện theo chín cách: Bằng cách loại trừ các dấu hiệu xấu [xuất hiện/ nảy sinh] ở các căn; qua đối trị (patipakkha) và không quan tâm/ không tham dự (amanasikara); không từ bỏ sự thực hành dù chỉ một thời gian ngắn (dù chỉ trong giây lát tạm thời) như [người đàn ông] đang cứu cái đầu đang cháy của mình (thực hành liên tục); ’ thông qua sự tiết chế giống như uy nghi của tôn giả Nanda thực hiện182 nhờ vượt qua / điều phục được tâm ác; qua tâm đắc định (tập trung) một cách dễ dàng; qua việc tránh xa những người không phòng hộ các căn: và qua kết giao với những người phòng hộ (giữ gìn) các căn.


Đức hạnh kết nối với các vật dụng cần thiết

Hỏi: “Đức Hạnh kết nối với các vật dụng cần thiết” là gì? 403b15

A. Qua tám cách này, người ta quán chiếu một cách sáng suốt trong việc thọ thực:

1. Không dùng (patisevati) để vui chơi (dava) hay để say sưa (mada); 2. không nhằm mục đích phô trương/  cuốn hút hay làm đẹp; 3. Dùng để duy trì cơ thể/ & sự sống; 4. Để trừ đói khát; 5. hỗ trợ đời sống phạm hạnh; 6. Thường quán xét rằng Ăn uống để trừ bỏ các bệnh cũ và không tạo ra các bệnh mới; 7. Tôi sẽ giảm bớt / lấy ít (để được an ổn)/ Sống đạm bạc, 8. Thường an lạc trong sự chẳng lỗi lầm." 183


Q. "Không dùng để vui chơi hoặc để say sưa" là gì?

A."Vì ham muốn thức ăn nên ta khỏe mạnh. Do đó, ta thích vui chơi, trò chơi thô bạo, cạnh tranh và chạy nhảy." Đây là "vui chơi (dava)".

"Say sưa (mada)" là kiêu ngạo, tự cao và không biết hài lòng. Giống như một người giận dữ đánh người khác.

"Không phải nhằm mục đích trở nên  hấp dẫn và làm đẹp": [không] vì sự đầy đặn của cơ thể và  tay chân và nước da đầy đặn, tươi sáng, khiến [người khác] thích thú/ ham thích. Vì Cảm thấy không hài lòng (với bản thân), người ta mong muốn [sự chú ý của người khác].

“Để bảo  tồn cơ thể và để nuôi sống cơ thể”: người ta dùng [thức ăn] để bảo tồn cơ thể giống như dùng dầu mỡ để bảo tồn và làm trơn trục xe. 403b25

“Để trừ (chấm dứt) đói khát”:  Nên phụ thuộc vào ít thức ăn, người ta dùng thức ăn giống như dùng thuốc để bôi lên vết loét (vết bệnh) .

“Để hỗ trợ đời sống phạm hạnh”: người ta [nên] ít phụ thuộc vào thức ăn.Mạnh khỏe và Hạnh Phúcngười ta thực hành con đường cao thượng. Nhận thức về sử dụng  [thức ăn] như thể người ta đang ăn [thịt của con mình], 184 .

“Ăn uống để  trừ bệnh cũ và không gây bệnh mới”: Không lấy quá ít cũng không quá nhiều. Như người ta đang sử dụng thuốc sắc.

Tôi sẽ giảm bớt / lấy ít (để được an ổn)/ sống đạm bạc”: Nhờ vừa lòng với số ít (vật thực kiếm được) mà cơ thể của một người được tự an. Giống như một người chăm sóc một bệnh nhân, người ta nên sử dụng. [403C]

Thường chẳng lỗi lầm: nhờ vừa lòng (biết đủ) với số ít mà có tâm trí để lo tu hành, thân không khó chịu, không bị bậc trí quở trách, nên gọi là “an trú nơi chẳng lỗi lầm”.

“Dễ dàng An trú”: Nếu ăn uống hợp lý thì thường không cảm thấy lười biếng, không mê ngủ vào canh đầu, canh giữa và canh cuối và thành tựu được sự an trú.

Như vậy, theo tám cách này, người ta quán chiếu (tu hành) một cách khôn ngoan trong việc thọ thực. Vì vậy người ta nên sử dụng để thực hành.


Bốn Cách Quán Chiếu

Và một lần nữa, tám cách này có thể được tóm tắt thành bốn Cách quán chiếu (patisankha), đó là, Quán Chiếu về những gì cần từ bỏ (pahatabba), Quán Chiếu về hỗ trợ (paccaya), Quán Chiếu về sự tồn tại với số ít, Quán Chiếu về vừa lòng với số ít (appicchata).

H. “Quán Chiếu về những gì cần phải từ bỏ” là gì?

Đáp: “Không phải để thể thao hay say sưa, không phải để hấp dẫn hay làm đẹp” – đây là “sự Quán Chiếu về những gì cần phải từ bỏ”.

“Để giữ gìn thân thể và để nuôi sống, để chấm dứt (trừ) đói khát, để hỗ trợ đời sống phạm hạnh” – đây là “sự Quán Chiếu về sự hỗ trợ”.

“Tôi chỉ dùng để bỏ những căn bệnh cũ và để không phát sinh những căn bệnh mới” - đây được gọi là “Quán chiếu về sự tồn tại với điều kiện (vật thực) tối thiểu”. 403c10

"Tôi vừa lòng với sốt ít thành ra an trú trong sự chẳng lỗi lầm và sống trong sự vô tư, thoải mái" - đây là "sự quán chiếu về sự vừa lòng/ thoải mái (vô tư) với số ít

Đây là bốn Quán Chiếu (Suy Ngẫm)..


Ba Quán Chiếu (suy ngẫm)

Một lần nữa, bốn sự Quán Chiếu này có thể được tóm tắt thành ba, cụ thể là Quán Chiếu về những gì cần tránh né (parivajjana), Quán Chiếu về những gì cần phát triển (bhavetabba) và Quán Chiếu về việc sử dụng (patisevana)]. 186

Tránh được hai cực đoan, người ta đạt được con đường trung đạo (mailhima-patipada): nhờ quán chiếu về sự tránh né hai cực đoan, người ta tránh được việc theo đuổi (cực đoan)  dục lạc/ thú vui giác quan, tức là [người ta dùng vật thực] " chỉ là để chấm dứt đói khát," và "chỉ là để thoát khỏi những bệnh tật cũ và sẽ không phát sinh những bệnh tật mới." Ngoài ra, thông qua sự Quán Chiếu này, người ta tránh được việc theo đuổi (cực đoan) Khổ Hạnh Ép Xác/ Hành Xác (attakilamathanuyoga).

Sự suy ngẫm về con đường trung đạo là [sự Quán Chiếu về những gì] cần được phát triển.'"


Một người Quán Chiếu “áo choàng (y phục) [chỉ] để tránh tiếp xúc với gió, lạnh, nóng, muỗi, ruồi, kiến ​​và để che giấu những bộ phận tạo ra sự xấu hổ.”'"

Do đó, sự Quán Chiếu về ứng dụng con đường là Quán Chiếu về cách sử dụng.

Tương tự, Người ta cũng Quán Chiếu rằng thuốc chỉ để [tránh khỏi] bệnh tật:"


Hỏi: Nếu đúng như vậy thì khi nào người ta nên Quán Chiếu (suy ngẫm)?

A. Về việc thọ thực đồ ăn và dùng thuốc, người ta nên suy xét mỗi lần mình dùng [thực phẩm và thuốc men].

Về y áo và chỗ ở, người ta cũng nên suy xét vào thời điểm lần đầu tiên có được chúng.

Mỗi ngày, mỗi giờ nên suy ngẫm: “Cuộc sống của tôi đây phụ thuộc vào người khác”; do đó lúc nào người ta cũng nên Quán Chiếu: 

Vì vậy luôn luôn có sự Quán Chiếu (suy ngẫm).



Đức hạnh liên quan đến việc sử dụng các vật dụng cần thiết

Có bốn cách thọ dụng các vật dụng (paribhoga) được các vị thầy cổ xưa (pordr3dcariya) dạy như sau: dùng như trộm cắp, dùng như nợ nần, dùng như thừa kế, và dùng như chủ nhân. 191

Q. “Dùng như trộm cắp” là gì?

A. Việc sử dụng [các vật dụng cần thiết] (dussila) khiến người ta Vi Phạm Giới

Q. "Dùng như nợ nần" là gì?

A. Được sử dụng một cách không có lương tâm và xấu hổ, và [thực hành] tà mạng.


 Q. "Dùng như thừa kế" là gì?

A. Sử dụng để tinh tấn tu hành.

Q. "Dùng như làm chủ" là gì?

A. Việc sử dụng của các bậc Thánh .



Một lần nữa, có hai loại sử dụng. Cụ thể là sử dụng dơ bẩn ( không trong sạch) và sử dụng trong sạch.

H. “Dơ bẩn/Ô uế” là gì?

A. Dùng bởi người có lương tâm và xấu hổ nhưng không có khả năng suy xét – đây gọi là “Dơ bẩn/ô uế”.

Dùng bởi người có lương tâm, biết xấu hổ, biết suy xét, biết tiết chế mình khi sử dụng (tiết chế lấy) và chán ghét những tư tưởng (niệm) xấu ác thì gọi là “trong sạch”.

Người ta nên luôn luôn sử dụng những vật dụng cần thiết bằng cách sử dụng trong sạch.  Nó phải được hiểu như vậyĐây gọi là “ đức hạnh tương ứng với các vật dụng cần thiết.”



Bản tóm tắt

Theo đó, đức hạnh Giới Luật Patimokkha được tuân giữ thông qua đức tin vững chắc; 192 Đức Hạnh thanh tịnh của sinh kế/ việc sống trong sạch (Chánh Mạng) được hoàn thiện thông qua Tinh Tấn (nghị lực) lớn lao (năng lượng dồi dào); [404a] Đức Hạnh kiềm chế các căn (các giác quan) được hoàn thiện thông qua chánh niệm vững vàng'' và Đức Hạnh liên quan đến các vật dụng cần thiết sẽ được thực hiện thông qua trí tuệ sáng suốt. 


{{{AI Gemini Explain" 

- Giữ giới Patimokkha: Giới luật phức tạp, đòi hỏi niềm tin mạnh mẽ vào giáo lý và sự tôn kính đối với Đức Phật để tuân thủ nghiêm ngặt. 

- Sống trong sạch: Cần nỗ lực và kiên trì (tinh tấn) để duy trì một cuộc sống đơn giản, không tham lam và tránh xa những nghề nghiệp sai trái. 

- Kiềm chế các giác quan: Giữ chánh niệm liên tục để nhận biết và chế ngự những ham muốn chi phối xuất hiện ở các giác quan.

 - Sử dụng các nhu cầu thiết yếu: Cần trí tuệ để biết đủ, sử dụng các nhu cầu thiết yếu một cách hợp lý." }}}

Ở đây, đức hạnh thanh tịnh của sinh kế/ sống trong sạch (Chánh Mạng) đi cùng với Đức Hạnh Giới Luật  [đức hạnh kiềm chế của Patimokkha].

Hỏi. Tại sao?

A. Bởi Vì đức hạnh không phải để duy trì một cuộc sống tốt, mà là để buông bỏ những việc đời và hướng đến sự an lạc, tĩnh lặng, điều này đạt được nhờ việc kiềm chế hành động thân và khẩu. 

Những đức hạnh này (sống trong sạch và kiềm chế theo Giới Patimokkha) liên quan đến đức hạnh kiềm chế các giác quan.


Hỏi. Tại sao?

A.Vì nếu bạn kiểm soát tốt tâm trí của mình (thông qua việc chế ngự ham muốn xuất hiện ở các giác quan), bạn sẽ tự nhiên kiểm soát được hành động thân thể và lời nói của mình. 


Đức hạnh liên quan đến các vật dụng cần thiết là [đức hạnh] kiềm chế các căn (giác quan). 


Hỏi. Tại sao?

A. Khi hiểu được đặc tính sanh khởi phụ thuộc vào vật chất (vatthu), người ta [sẽ] nhàm chán (giảm ham muốn ở các giác quan) và [sẽ có] chánh niệm và chánh định đúng đắn..

Như Đức Thế Tôn đã dạy: “Khi một Tỳ-kheo hiểu được thức ăn là vật chất, vị ấy cũng hiểu được năm dục lạc.”'

Giới kiềm chế Patimokkha và sự trong sạch của sinh kế (chánh mạng) được tập hợp trong các Đức hạnh; Giới đức kiềm chế các căn được bao gồm trong thiền định và Đức hạnh liên quan đến các vật dụng cần thiết được bao gồm trong các phần của Trí Tuệ. 404a10


Đức hạnh thanh khiết và đặc tính của nó

H. Làm thế nào để thực hiện giới hạnh thanh tịnh?

A. Khi một vị tỳ khưu lần đầu tiên nhận được giáo lý về thiền định, vị ấy nên suy xét xem mình có vi phạm bất kì điều nào trong bảy nhóm lỗi giới hay không. Nếu thấy mình đã phạm tội Parajika (trọng tội) thì bị loại khỏi trạng thái Tỳ kheo (bị loại khỏi tăng đoàn) và đứng trong giới hạnh của người chưa được thọ nhận đầy đủ Giới (anupasampanna-sila). Nhưng nếu vị ấy đứng vững trong giới hạnh của người hoàn toàn nhận đủ Giới (upasampanna-sila), vị ấy sẽ đạt được Pháp tối thượng (aggadhamma). 196 Đây là lời dạy của các bậc thầy cổ xưa.

Nếu một vị tỳ khưu tự nhận thấy mình đã phạm tội liên quan đến việc gây gián đoạn tăng đoàn (sanghadisesa), thì vị ấy  cần có hành động sám hối (deseti) chính thức trước Tăng đoàn (sanghakamma).

Nếu anh ta thấy mình đã phạm bất kỳ hành vi  phạm tội nào khác, thì anh ta cần thú nhận hành vi phạm tội đó với người khác (một vị tỳ khưu khác).

Nếu một vị tỳ khưu tự nhận thấy mình đã phạm tội tà mạng thì vị ấy cần sám hối tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội đó. Đồng thời hứa sẽ không tái phạm"

Đối với những vi phạm [đức hạnh] kiềm chế các căn hay [đức hạnh] liên quan đến các vật dụng cần thiết: vị ấy tự hứa: quyết sẽ không tái phạmNếu anh ta quyết tâm thực hiện được, anh ta sẽ đạt được [đức hạnh] kiềm chế ưu việt trong tương lai. 197

Nhờ vào đức hạnh thanh tịnh, vị Tỳ Khưu ấy sẽ thực hiện được mọi hành vi về thân và khẩu đúng đắnNgười ấy phải luôn quán chiếu/ suy xét, làm điều thiện và loại bỏ điều ác. Người ấy nên quán chiếu như vậy và an trú trong sự thanh tịnh của đức hạnh cả ngày lẫn đêm (ngày ngày đêm đêm). Bằng cách thực hành như vậy , vị ấy sẽ tạo được sự thanh tịnh (trong sạch) của Đức Hạnh.

Hỏi. Đặc tính của đức hạnh thanh tịnh là gì?

A. Đặc tính của nó là ứng phó được (kiềm chế được) các phiền não'", không sinh khởi hối hận và hoàn toàn đạt được định tâm—đây chính là đặc tính của đức hạnh thanh tịnh. 404a21

Nguyên nhân nhờ đó người ta sống trong đức hạnh

H. Do có bao nhiêu nguyên nhân mà người ta sống trong Đức Hạnh (Giới Đức)?'"

A. Do hai nguyên nhân người ta sống trong Đức Hạnh: 0) người ta xem xét (tuleti?) những bất lợi (adinava) của sống Phi đạo đức (dussilya); (2) người ta xem xét lợi ích của việc sống đức hạnh.

Hỏi: “ điểm bất lợi” [của hành vi sống phi Đạo Đức] như thế nào?

A. Nếu một người sống vô đạo đức thì nhận quả xấu và tái sinh vào các ác đạo (cảnh giới thấp kém) (duggati). Người ấy sợ hãi trong bốn chúng” và luôn bất an. Người trí và đức hạnh từ chối và tránh xa và không dạy thiền định cho người đó. Chư thiên và con người khinh thường, chê bai người ấy. Nghĩ đến sự Phạm Giới của mình, khi người ấy thấy ai khen đức tính của người giữ đức hạnh (trì giới), Lòng dạ lại ăn năn, hối tiếc nhưng chẳng có niềm tin.

Ở giữa bốn hội chúng, vị ấy luôn tức giận và tranh chấp/ xung đột. Vị ấy tạo ra nhiều sự oán giận đối với người thân và bạn bè của mình.' Anh ta quay lưng lại với người có đạo đức và đứng về phía kẻ ác. Người đó chẳng thể kham chịu bền chí mà đắc được Định Thù Thắng (tối cao).

Tuy anh ta tô điểm cho mình, anh ta chẳng giấu được chỗ  xấu ác. Anh ta giống như phân và nước tiểu bị mọi người ghê tởm. Anh ấy giống như đồ giả chẳng bền lâu. [404b] Anh ta giống như bùn lầu nước đọng, chẳng có lợi ích gì trong hiện tại hay tương lai.


Anh ấy thường trong lo lắng, đau khổ. Nếu đã làm điều đáng trách, thì bị xấu hổ ,hối hận truy đuổi, không được an tâm như kẻ trộm trong tù. Người ấy không thể  vui với Pháp [Pháp] cao thượng, giống như một người hầu chẳng thể mơ đến ngai vàng. 202. Cho Dù người ấy có trí tuệ do học tập và thích thuyết giảng các đức tính tốt, nhưng không nhận được sự tôn trọng từ mọi người, giống như lửa được tạo ra bằng việc đốt  phân khô [không được ai tôn kính]. Anh sống ở nơi thấp kém.' Vào lúc chết anh ta mê muội sẽ đi tới nẻo dữ”

Xem xét những khía cạnh trên người ta có thể thấy những bất lợi [của sự vô đạo đức].

Người ta cũng có thể suy xét: Nếu người ấy thay đổi, những điều xấu xa này sẽ được thay thế bằng lợi ích của đức hạnh. Người ấy nên suy xét như sau:Người không có đạo đức sẽ có tâm trí thô trệ, chán nản, lòng tốt suy giảm và tâm tán loạn. Ngược lại, người có đạo đức sẽ có lòng tin, sự tôn kính và tinh tấn tăng trưởng, trở thành một bậc thánh nhân. người trung thành, đáng kính ”.

Người ta phải hết lòng bảo vệ đức hạnh của mình. “Như con kiến ​​bảo vệ trứng; như con bò yak bảo vệ cái đuôi của nó; như người ta bảo vệ đứa con trai duy nhất hoặc con mắt duy nhất của mình; 205 như con siến bảo vệ chính mình; như người nghèo bảo vệ kho báu của mình; và như thuyền trưởng đi biển bảo vệ con tàu của mình— hơn nữa và  hơn những điều này, tôi nên tôn kính và bảo vệ giữ gìn đức hạnh đã thọ nhận.”

Nếu anh ta quyết tâm như vậy, tâm anh ta sẽ được bảo vệ, anh ta sẽ an trú trong thiền định và đức hạnh của anh ta được bảo vệ.


Bài đăng phổ biến từ blog này

1. Chương 1: Vì Sao Viết Sách Này (Nhân Duyên)

9.12. Luận Về Sự Thật: Các Bước Để Chứng Ngộ Sự Thật