4 CHƯƠNG 4: LUẬN VỀ ĐỊNH (SAMADHINIDDESA)

 CHƯƠNG 4: LUẬN VỀ ĐỊNH

(SAMADHINIDDESA)

Hỏi. Bây giờ, thiền giả đã sống trong giới hạnh trong sáng/thanh tịnh (đã có giới đức trong sáng) và đã thưc hiện các khổ hạnh thì nên làm gì để đạt được trạng thái thiện lành tốt đẹp hơn?

A. Vị ấy nên tu tâp định.

Ý nghĩa của Định

H. Định là gì? Đặc tính, chức năng, biểu hiện và nguyên nhân gần của nó là gì? Ai đảm nhận thực hiện việc đó? Sự khác biệt giữa jhana, giải thoát, tập trung và chứng đắc là gì? Có bao nhiêu nguyên nhân dẫn đến Định? Có bao nhiêu trạng thái là chướng ngại cho sự sanh khởi của định? Có bao nhiêu lợi ích của ĐịnhNhững điều kiện để thành tựu Định là gì? Có bao nhiêu loại định ?

H. Định là gì?

Đáp: “"Định" được hiểu là trạng thái tâm (Thanh Tịnh - tinh khôi, trong sáng), nỗ lực liên tục, có lợi ích là sự an tĩnh, v.v.,, an trú trong chánh pháp và không tán loạn/ không phóng giật. đây được gọi là "định

Hơn nữa, nó có nghĩa là tâm không bị lay động bởi những cơn gió mạnh của các烦恼 (phiền não). Nó giống như ngọn đèn không nhấp nháy bên trong cung điện.

Như đã nói trong Vi Diệu Pháp: "Bất kỳ sự kiên định của tâm, sự bất động, sự vững chắc, không bị quấy rầy, không dao động, sự an lạc do không tán loạn/ không phóng dật,  chánh định (định đúng đắn), năng lực định, sức mạnh của định - đây được gọi là 'định'."

Hỏi: Đặc điểm, chức năng, biểu hiện và nguyên nhân gần của nó là gì?

A. Kiên định của tâm/ Tâm ổn định/ Vững Chãi (cittassa thiti) là đặc điểm của nó; loại bỏ chướng ngại  (paccanika, paccatthika) là chức năng của nó, an lạc (samatha, viveka) là biểu hiện của nó; sự giải thoát của tâm do sự phai nhạt của lòng tham (rāgavirāga cetovimutti)305 là nhân duyên (gần) của nó.


Q. Ai đảm nhận việc tập trung?

A.  Kẻ thực hiện sự định là:

  • Người giữ cho tâm và các pháp tâm lý (cetasika) được an trú một cách cân bằng,và tu tập định một cách đều đặn, giống như bàn tay cầm một cái cân;
  • Kẻ khởi sanh tâm và các pháp tâm lý một cách cân bằng, giống như [người giữ thăng bằng khi] mang theo một bát dầu;
  • [Người có] chánh niệm với năng lượng (tinh tấn), v.v.,308 hoạt động [cùng nhau] cho mục đích định (cùng với tín và tuệ)  giống như bốn con ngựa khỏe bằng nhau kéo một cỗ xe;
  • Kẻ quán chiếu [đối tượng/ dấu hiệu] một cách chuyên tâm hướng tới mục đích thiền định, giống như một cung thủ giỏi chuyên tâm [vào mục tiêu] khi hướng mũi tên.

Bởi vì nó loại bỏ các chướng ngại (paccanika), định tĩnh giống như một loại thuốc giải độc. Như được nói trong Abhidhamma: "Định tĩnh có nghĩa là 'bao trùm', định tĩnh có nghĩa là 'bao gồm' và định tĩnh có nghĩa là "hoàn thành'"

Q. Sự khác biệt giữa thiền ( jhana), giải thoát, định và chứng đắc/ thành tựu là gì?

“jhana” có nghĩa là bốn tầng jhana, cụ thể là jhana thứ nhất, v.v. 312

“Giải thoát” có nghĩa là tám sự giải thoát, tức là "Người nhận thức được sắc bên trong, thấy sắc bên ngoài", v.v.

“Tập trung/ Định” có nghĩa là ba loại tập trung, đó là “Định với suy nghĩ và khám phá/ thẩm tra,” v.v. 314

“Chứng Đắc” có nghĩa là đạt được chín tầng chứng đắc liên tiếp.

Hỏi. [Những nguyên nhân] dẫn đến jhana, v.v. là gì? 316

A. Vì Thực hành quán chiếu đối tượng (arammana), vì quán [và vượt qua] các chướng ngại (đối nghịch), vì hỷ (vui mừng) và lạc (hạnh phúc) trong tâm, vì ly dục  và thoát khỏi các chướng ngại, vì quân bình của [tâm], vì thiện xảo trong việc tạo ra định, vì đạt được sự thành thạo (thưc hiện một cách dễ dàng thoải mái), vì thiết lập sự nhất tâm [nhờ] sự kiên định (vững chãi), vì mong muốn phát khởi định, nên có [jhana/ thiền] chứng đắc và giải thoát được sanh khởi.


Lợi ích của sự tập trung

       H. Có bao nhiêu lợi ích có thể đạt được thông qua định?

       A. Có bốn lợi ích có thể đạt được thông qua định. Bốn điều đó là gì?

A. An lạc trong đời này (ditthadhammasukhavihāra)Thực hành quán chiếu thông qua một đối tượng dễ chịu; chứng ngộ được các trí tuệ trực tiếp (abhintia); Thành tựu một trạng thái tồn tại (bhavasampatti) cao hơn

Hỏi: "An lạc trong đời này" là gì?

A. Cụ thể là, người đạt được định có thể phát khởi tâm vô nhiễm (tâm thoát khỏi ô nhiễm), tận hưởng hương vị hỷ lạc, trải nghiệm hỷ siêu thế và sống an lạc trong cuộc đời này. 318 Vì vậy, Đức Thế Tôn đã nói: “Khi hỷ sinh khởi, thân được an lạc, người ta hưởng thụ sự mát mẻ (sītibhāva) [của tâm], và dần dần mang lại sự viên mãn, hoàn thiện, thành tựu, v.v.” 319

Lại nữa, Đức Phật tuyên bố với các Tỳ kheo: “Này các Nigantha, lúc đầu ta không cử động thân thể, không nói một lời, im lặng, suốt bảy ngày bảy đêm ta chỉ an trú trải nghiệm hạnh phúc.”

Điều này trong Giáo lý của bậc Thánh (ariya-dhamma) gọi là “cư trú dễ chịu/ an lạc trong đời này”.

Thực hành quán chiếu thông qua một đối tượng dễ chịu” có nghĩa là khi tâm hành giả đạt được một đối tượng tập trung, thoát khỏi những chướng ngại và phiền nhiễu/ ám ảnh, trở nên mềm mại (mudu) và dễ uốn nắn/ điều khiển/ sử dụng (kammaniya), quán chiếu và phân biệt các uẩn, các xứ giác quan. , các yếu tố và vân vân, 321 anh ta ở trong trạng thái thoải mái (phasu-bhava). 322 Vì thế, Đức  Thế Tôn dạy: “Này các Tỳ kheo, các ông nên phát triển [định], tùy thuộc/ nương tựa vào [định] tâm, mọi thứ được biết như nó thực sự là.” 323 407a24

“Chứng ngộ được các tuệ giác trực tiếp” có nghĩa là một người đã đạt được định, nhờ vào đó mà chứng ngộ năm năng lực siêu phàm/ thần thông, đó là, những nền tảng của thần thông, thiên nhĩ, hiểu biết về tâm người khác, hồi tưởng về tiền kiếp, và con mắt thần thánh/ thiên nhãn. Vì vậy, Thế Tôn đã dạy các Tỳ kheo: “Khi đạt được định tâm (cittasamadhi), người đó có khả năng chuyển hóa thần thông (vikubbana). Và tương tự như vậy, người đó có thể đạt được tất cả các thần thông xứ.” 324

Thành tựu một trạng thái tồn tại (cao hơn)” 325 có nghĩa là người đã đạt được định tâm và chưa trở thành bậc A-la-hán  (asekha), nếu không lùi sụt thoái thất thì sẽ đạt được thành tựu tái sinh vào một cõi sắc (rūpa-bhava) hoặc vô sắc (arupa-bhava) như là quả (vipāka) của việc đạt được định tĩnh Như Đức Phật đã tuyên bố: “Người ít thực hành sơ thiền sẽ được [tái sinh vào] Phạm Thiên.” Tất cả những người thuộc loại này đều được sinh ra ở đó. [407b]

Do đó, tất cả bốn lợi ích này đều có thể sinh ra nhờ định, Định Tĩnh nên được sử dụng để từng bước làm phát sinh từng lợi ích một.

Chướng ngại, nguyên nhân và điều kiện của việc tập trung

Hỏi. Có bao nhiêu trạng thái chướng ngại (paripantha) cho sự tập trung/ Định?

A. Tám trạng thái, cụ thể là: tham dục/ dục vọng, lười biếng, trạo cử và buồn ngủ,  tán loạn, nghi ngờ, vô minh, buồn chán và tất cả các trạng thái ác bất thiện—đây là những chướng ngại. 

Hỏi: Có bao nhiêu nguyên nhân của sự tập trung/ Định?

A. Tám trạng thái, cụ thể là: xuất ly/ từ bỏ, không sân hận, tưởng ánh sáng, không tán loạn, xác định/ phân biệt các pháp, trí tuệ, hỷ (vui mừng) và tất cả các trạng thái thiện—đây là những nguyên nhân của định.

Hỏi. Những điều cần thiết (parikkhara) của định là gì 327

A. Có bảy, đó là: Giới đức, tri túc (vừa đủ/ biết đủ), phòng hộ các căn (giác quan), ăn uống tiết độ, đêm canh đầu và canh cuối không ngủ, 328 chánh niệm và tỉnh giác liên tục (sati-sampajantia), và một nơi ở yên tĩnh, hẻo lánh.


Hai loại định tâm

Hỏi. Có bao nhiêu loại định?

A. Có hai loại định. Thứ nhất là định thế gian, thứ hai là định siêu thế.' Việc đạt được Thánh Quả được gọi là “định siêu thế”; những định khác được gọi là "định thế tục".

407b10 Định thế tục bị chi phối bởi ô nhiễm/ phiền trược (sasava), Bị trói buộc bởi xiềng xích/ tham lam, sân hận, si mê (samyojaniya), trói buộc (ganthaniya), dòng xoáy 33° (oghaniya), ách nặng (yoganiya), chướng ngại (nivaraniya), có sự bám víu (paramattha), có sự dính mắc (upadaniya), phiền não (sankilesika). 331 Đây được gọi là “định thế tục.” Ngược lại với điều này được gọi là “định siêu thế”.

Lại nữa, có hai loại định: tà định/ Định sai lầm (miccha-samadhi) và chánh định (samma-samadhi).

Định sai (tà định) là gì? Tâm tập trung tâm(nhất tâm) bất thiện/ không lành mạnh được gọi là “ tà định”. Tâm tập trung tâm/ nhất tâm lành gọi là “Chánh Định”. Định sai (tà định) nên từ bỏ. Chánh Định cần được phát triển.

Và lại nữa, có hai loại định: cận định (upacara samadhi ) và an trú (an chỉ) định ( appana-samadhi). 407b15

  • Định Tiếp Cận (upacāra-samādhi): Giai đoạn khởi đầu (pubbabhaga) của bất kỳ trạng thái định (samadhi hoặc samapatti) nào - đây được gọi là "định tiếp cận." Đây là giai đoạn dẫn đến trạng thái tập trung cao hơn. 332
  • Định An Trú (appanā-samādhi): Sự chuyển đổi dòng (gotrabhu-anantara) ngay lập tức sau đó - đây được gọi là "định an trú." Đây là trạng thái tập trung sâu và ổn định.

{{AI Gemini Explain:

Hai loại Định (concentration):

  • Định Tiệm Cận (access-concentration - upacara-samadhi): Là giai đoạn đầu tiên của việc đạt được định. Đây là khi tâm trí bắt đầu tiếp cận và an trú vào đối tượng thiền.

  • Định An Trú (fixed concentration - appana-samadhi): Là giai đoạn sau của Định Tiệm Cận. Khi tâm trí đã an trú vững chắc vào đối tượng thiền trong một khoảng thời gian nhất định, thì đó được gọi là Định An Trú.

Giải thích thêm:

  • Phần mở đầu (pubbabhaga): Có thể hiểu là giai đoạn ban đầu, bước khởi đầu.
  • Chuyển dòng (gotrabhu-anantara): Có nghĩa là ngay sau khi vượt qua giai đoạn ban đầu.
  • Định (samadhi/samapatti): Cả samadhi và samapatti đều có nghĩa là định.

Tóm lại: Định Tiệm Cận là giai đoạn khởi đầu, bước "chạm ngõ" với trạng thái tập trung, còn Định An Trú là giai đoạn sau đó khi tâm trí đã an trú vững chắc vào đối tượng thiền.}}


Ba Loại Định

Một lần nữa, có ba loại định: định có suy nghĩ và khám phá/thẩm tra; định mà không cần suy nghĩ và có một chút khám phá/thẩm tra; định mà không cần suy nghĩ và khám phá/thẩm tra. 333


 H. định với suy nghĩ và khám phá là gì?

A. Jhana đầu tiên là suy nghĩ/tìm kiếm và khám phá/thẩm tra/suy xét. Jhana thứ hai là không cần suy nghĩ/tìm kiếm nhưng có mức độ khám phá/thẩm tra/suy xét nhẹ. Các jhana còn lại không có suy nghĩ và khám phá.

Và một lần nữa, có ba loại định. Cụ thể là định đi kèm với hỷ/ vui mừng (piti-sahagata); sự tập trung đi kèm với hạnh phúc/lạc; sự tập trung đi kèm với sự bình thản/xả.'

Thiền thứ nhất và thứ hai đi kèm với hỷ/vui mừng, thiền thứ ba đi kèm với lạc/hạnh phúc và thiền thứ tư đi kèm với xả. 407b21

Và lại nữa, có ba loại định: định thiện lành; định kết quả sự tập trung (định) chức năng.

H. Định thiện là gì?

A. Con Đường Cao Quý/ Thánh Đạo, và các định vật chất/ sắc giới và phi vật chất/ vô sắc giới được phát triển bởi người học và người bình thường phát triển—điều này được gọi là “định thiện lành”.

Quả Thánh, và các cõi vật chất/ sắc giới và phi vật chất/ vô sắc giới mà người học và người bình thường tái sinh vào đó—điều này được gọi là “định quả”.

Sự tập trung vật chất/ định sắc giới và phi vật chất/ định vô sắc giới mà người không học (asekha) đạt được được gọi là "sự tập trung chức năng (kiriya) ".


Bốn Loại Định

Ngoài ra, còn có bốn loại định: định cõi dục; định cõi sắc; định cõi vô sắc; định vô ký (asankharuka-samadhi).

  • Định cõi dục: Bất kỳ sự thực hành (pațipada), bắt tay vào thực hành (samudacaraṇa) nào - đây được gọi là "định cõi dục". (Có thể hiểu là các thiền định liên quan đến thế giới vật chất)
  • Định cõi sắc: Bốn thiền (jhāna) được gọi là "định cõi sắc."
  • Định cõi vô sắc: Bốn tầng thiền vô sắc và [sự tái sinh trong cõi vô sắc là] kết quả của nghiệp thiện (kammavipāka) - đây được gọi là "định cõi vô sắc."
  • Định vô ký: Định của bốn Đạo và bốn Quả - đây được gọi là "định vô ký." (Những trạng thái định không thuộc về cõi nào).

Ngoài ra, còn có bốn loại thực hành định: [định] với thực hành khó nhọc và tuệ giác chậm; với thực hành khó nhọc và tuệ giác nhanh; với thực hành dễ chịu và tuệ giác nhanh; với thực hành dễ chịu và tuệ giác chậm.

[Ở đây,] có bốn loại người: (1) những người có nhiễm ô mạnh; (2) những người có nhiễm ô yếu; (3) những người có căn cơ chậm chạp và (4) những người có căn cơ nhanh [4o7c]

Khi một người có ô nhiễm mạnh và căn cơ chậm chạp, người thực hành khó nhọc và có tuệ giác chậm, đạt được định [được gọi là định với thực hành khó nhọc và tuệ giác chậm]

  • Khi một người có ô nhiễm mạnh và căn cơ nhanh, người thực hành khó nhọc và có tuệ giác nhanh, đạt được định [được gọi là định với thực hành khó nhọc và tuệ giác nhanh].

Khi một người có ô nhiễm yếu và căn cơ chậm chạp, có sự thực hành dễ chịu và tuệ giác chậm, đạt được định [được gọi là định với thực hành dễ chịu và tuệ giác chậm].

Khi một người có nhiễm ô yếu và căn cơ nhanh nhẹn, có thực hành dễ chịu và tuệ giác nhanh chóng, đạt được định [được gọi là định với thực hành dễ chịu và trí tuệ trực tiếp nhanh chóng].

Vì sức mạnh của ô nhiễm, một người có ô nhiễm mạnh khó vượt qua ô nhiễm. Do đó, việc thực hành của họ là khó khăn/ gian khổ/ đau đớn.

Bởi vì các căn chậm chạp, một người có các căn chậm chạp phải thực hành thiền jhana trong một thời gian dài để đánh thức tuệ giác chậm của mìnhVì thế nên gọi là người có căn cơ chậm chạp. Bằng cách này, tất cả [những người khác] nên được phân tích.

Ngoài ra, có bốn loại định, đó là, định hạn chế với một đối tượng hạn chế (paritta-arammar3a); định hạn chế với đối tượng vô lượng (appamaṇa-ārammana); định vô lượng với đối tượng hạn chế; định vô lượng với đối tượng vô lượng.

Hỏi. “Hạn chế tập trung vào vật thể hạn chế” là gì? 407c10

A. Định hạn chế với đối tượng hạn chế: Định không đạt được theo ý muốn và có đối tượng có sức mạnh hạn chế - đây được gọi là "định hạn chế với đối tượng hạn chế."


Hỏi: “Định hạn chế với đối tượng vô lượng” là gì?

A. Định không đạt được theo ý muốn và có đối tượng có sức mạnh to lớn - đây được gọi là "định hạn chế với đối tượng vô lượng."

Hỏi. “Định vô lượng với đối tượng hạn chế” là gì?

A. Định đạt được theo ý muốn và có đối tượng có sức mạnh hạn chế - đây được gọi là "định vô lượng với đối tượng hạn chế."

.

Hỏi: “Định vô lượng với đối tượng vô lượng” là gì?

A. Định đạt được theo ý muốn và có đối tượng có sức mạnh to lớn - đây được gọi là "định vô lượng với đối tượng vô lượng.

407c16 Và lại nữa, có bốn loại định: định do nhiệt tâm ( Động Lực Thúc Đẩy/ Nhiệt Tình Hăng Hái) (chanda-sarnadhi); định do năng lượng Tinh Tấn (viriya); định do tâm (citta); định do quán sát  (vimamsa). 343

Cái gì được đạt được nhờ việc phát triển nhiệt tâm là “định do nhiệt tâm”; cái gì được đạt được nhờ nỗ lực tinh tấn là định do tinh tấn"; cái gì được đạt được nhờ phát triển tâm là "sự tập trung do tâm"; ái gì được đạt được nhờ phát triển sự quán sát/ điều tra thì được gọi là "định do quán sát"

Ngoài ra, có bốn loại định: định mà chư Phật đạt được, nhưng không phải của  các vị Thánh  hữu học (savaka); định mà các vị Thánh hữu học đạt được nhưng không phải là chư Phật; định mà cả chư Phật và các vị Thánh hữu học đều đạt được; định mà chư Phật cũng như các vị Thánh hữu học không thể đạt được.

Đạt được đại bi (mahakaruna-samapatti) và thành tựu thần thông song hành (yamaka-patihariya) là các định của Chư Phật và không phải của người nghe.'

Thành quả Tu tập (sekha-phala-samāpatti) của người học là một định của người nghe chứ không phải của chư Phật.

Chín tầng định liên tiếp (anupubba-samapatti) 346  và thành quả giải thoát của bậc A-la-hán là các định của cả Chư Phật và người nghe.

Sự chứng đắc vô tưởng (asanna-samapatti) 347 là một định không thuộc về Chư Phật cũng không thuộc về  người nghe. 407c24

Ngoài ra, có bốn loại định: 

+  Định đưa đến sanh khởi (samudaya) và không đưa đến diệt (nirodha).

+ Định đưa đến diệt và không đưa đến sanh khởi.

+ Định đưa đến cả sanh khởi và diệt.

+ Định không đưa đến sanh khởi cũng không đưa đến diệt.

Hỏi: Thế nào là “có sinh và không có đoạn diệt”?”

A. Định thiện và bất thiện thuộc cõi dục (kāma-dhātu) - đây được gọi là "dẫn đến sanh khởi và không dẫn đến diệt.

Định của Thánh Đạo Bốn - đây là "dẫn đến diệt và không dẫn đến sanh khởi."

Định sắc và vô sắc thiện của người học và người phàm là "dẫn đến sanh khởi và diệt [408a]

Tất cả các thành quả tu tập và định hành (kiriya) - đây là "không dẫn đến sanh khởi cũng không dẫn đến diệt."

Ngoài ra, còn có bốn loại thiền (jhana): thiền thứ nhất (Sơ Thiền); thiền thứ hai (Nhị Thiền); thiền thứ ba (Tam Thiền); thiền thứ tư (Tứ Thiền).

Khi thoát ly tham sân và các pháp triền ngại khác (5 Triền Cái), đồng thời thành tựu suy nghĩ, thẩm tra, hỷ lạc, hạnh phúc và nhất tâm—điều này được gọi là “sơ thiền”.

Khi ly khỏi suy nghĩ và thẩm tra và thành tựu ba yếu tố còn lại – điều này được gọi là “Thiền Thứ Hai (Nhị Thiền)”.

Khi ly khỏi hỷ lạc và thành tựu hai yếu tố kia – điều này được gọi là “thiền thứ ba”.

Khi ly khỏi hạnh phúc và thành tựu sự bình tâm (xả) và hợp nhất tâm trí (nhất Tâm) – điều này được gọi là “jhana thứ tư”. 408a05

Năm Loại Định

Lại nữa, có năm loại định, đó là sơ thiền; jhana thứ hai; jhana thứ ba; thiền thứ tư; thiền thứ năm.” Có năm jhana tương ứng với năm chi thiền là suy nghĩ, khám phá, hỷ, lạc và nhất tâm.

Tách rời khỏi năm chướng ngại và có năm chi phần – điều này được gọi là “sơ thiền”.

Tách rời khỏi suy nghĩ và có đủ bốn yếu tố—điều này được gọi là “thứ hai jhana”.

Tách rời khỏi suy nghĩ và khám phá, và có ba yếu tố – đây được gọi là “thiền thứ ba”.

Tách rời khỏi suy nghĩ và hỷ, và có hai yếu tố – đây được gọi là “tứ thiền”.

Tách biệt khỏi suy nghĩ và hạnh phúc, và có hai yếu tố – xả và nhất tâm – điều này được gọi là “jhana thứ năm”.

Tại sao Bốn và Năm ihanas được dạy

Hỏi: Tại sao dạy bốn và năm thiền? 408a10

A. Bởi vì phân biệt hai loại người, nên có hai loại thiền thứ hai, cụ thể là không có tư duy và thẩm tra, và không có suy nghĩ nhưng vẫn còn một mức độ thẩm tra nhẹ.

  • Có một hành giả có thể dễ dàng đạt được thiền thứ nhất, sau đó là thiền thứ hai. Vị ấy quán sát, nhớ lại và suy xét về sự thô thiển của suy nghĩ và thẩm tra, đồng thời biết những bất lợi của suy nghĩ và thẩm tra. Vì vậy, vị ấy tu tập thiền thứ hai loại bỏ suy nghĩ và thẩm tra. Theo cách này, vị ấy thực hành bốn thiền một cách liên tục.

Lại có một người khác đã dễ dàng đạt được thiền thứ nhất và bây giờ đang thực hành thiền thứ hai. Vị ấy quán sát, nhớ lại và suy xét về sự thô thiển của suy nghĩ và biết những bất lợi của suy nghĩ. Vị ấy nhận ra trạng thái không có suy nghĩ nhưng vẫn còn một mức độ thẩm tra nhẹ (vicāramätta), và do đó đạt được thiền thứ hai. Theo cách này, vị ấy thực hành năm thiền một cách liên tục.

Do đó, người ta dạy về năm thiền354

Ngoài ra, còn có năm loại định, cụ thể là năm loại định đúng (Chánh Định) có đủ năm yếu tố: tràn ngập hỷ (pharana), tràn ngập lạc, tràn ngập tâm, tràn ngập ánh sáng và Định chứng hồi tưởng.”

Ở đây ,Trong thiền thứ nhất và thứ hai có "tràn ngập hỷ lan tỏa”. Trong thiền thứ ba có  "sự tràn ngập hạnh phúc." Kiến thức về tâm của người khác được gọi là "tràn ngập tâm.". Thông tuệ thiên nhãn được gọi là "tràn ngập ánh sáng." Kiến thức hồi tưởng sau khi xuất thiền: "Định chứng hồi tưởng". 356 Đây gọi là “chánh định có đủ năm yếu tố .”408a20

Và lại nữa, có năm loại định, đó là năm loại định đúng (chánh định) có liên quan đến năm trí:

(1) Trí cá nhân khởi lên: “Định này đưa đến hạnh phúc hiện tại và quả hạnh phúc nảy sinh trong tương lai (ayatim sukha-vipaka)”

(2) [Trí cá nhân khởi lên:] “Định này được các bậc Thánh thực hành và thoát khỏi phàm tục (niramisa).”

(3) [Trí cá nhân khởi lên:] “Định này được các bậc trí tuệ thực hành.”

(4) [Trí tuệ cá nhân khởi lên:] “Định này là an lạc và hạnh phúc vô cùng, đạt được thông qua sự an định, thành tựu thông qua sự nhất tâm; nó không bị ngăn chặn bởi sự đàn áp mạnh mẽ.”'

(5) Trí tuệ cá nhân khởi lên: “Tôi nhập định này một cách chánh niệm và xuất khỏi nó một cách chánh niệm.” 358

Ngoài ra, khi đã phân tích các đề mục thiền, đã phân tích việc thực hành các đối tượng (arammana-bhavana?), và phân tích điều gì là thấp, trung bình hoặc cao [trong chúng], thì định có nhiều loại; tuy nhiên, mỗi loại định này đều được hiểu là nằm trong bốn loại định.

Bài đăng phổ biến từ blog này

2. CHƯƠNG 2: Phân Tích về Giới / Đức Hạnh (STLA-NIDDESA)

1. Chương 1: Vì Sao Viết Sách Này (Nhân Duyên)

9.12. Luận Về Sự Thật: Các Bước Để Chứng Ngộ Sự Thật