001
Kính lễ Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Đẳng Giác!'
Giới, định, tuệ và tự do (giải thoát) vô song:
Với những thánh pháp này đã thức tỉnh Gotama, bậc lừng danh.'
Nếu có người muốn thoát khỏi các chướng ngại, muốn cởi được mọi ràng buộc [thế tục], thành tựu tâm tham dự vào phân biệt, dứt sợ hãi về sinh, già và chết, mong muốn điều tốt lành và tự do'" đạt đến hạnh phúc Niết-bàn, bến bờ xa hơn chưa chạm tới, và [mong muốn] đạt được sự hoàn hảo,thì cần tìm hiểu chi tiết về các vấn đề của Kinh, Luận và Luật: Đây chính là Con Đường Tự Do mà tôi sắp nói. này, Hãy chú ý lắng nghe!
Giải trình
H. “Đức hạnh” (Giới Hạnh) là gì?
A. “Đức hạnh” (Giới Cấm) có nghĩa là “kiềm chế” (samvara). 46 “Định” (samadhi) có nghĩa là “không dao động” (avikkhepa). “Trí tuệ” có nghĩa là “Sự Hiểu Biết”. “Tự do” (Giải Thoát) có nghĩa là “tách rời/ thoát khỏi các dây ràng buộc” (visamyoga). 47 “Vô song” có nghĩa là Vô Lậu, “không ô nhiễm, dứt hết các phiền não” (anasava). “Thức tỉnh” có nghĩa là “đạt được trí tuệ (nanapatta?).” “Những thánh pháp này” có nghĩa là bốn trạng thái sự thật cao quý (Tứ Diệu Đế) (ariya-dhamma).” “Gotama” có nghĩa là “tên gia đình.” “Bậc Lừng Danh” có nghĩa là “được thế giới tôn vinh.”'
Nhờ những phẩm tính tối thượng của giới hạnh, sự tập trung, trí tuệ và sự tự do giải thoát, Ngài đã đạt được công đức vô thượng và vô biên. 39905
Hỏi. Ý nghĩa của “Con Đường Tự Do (Giải Thoát)” là gì?
A. Về tự do giải thoát, có năm giải thoát: 49 tự do giải thoát nhờ đỉnh chỉ (ngừng lại các chướng ngại, triền cái) (vikkhambhana-vimutti), tự do giải thoát khỏi tri kiến sai lầm (tadanga-vimutti), tự do giải thoát nhờ diệt trừ các kiết sử (samuccheda vimutti ), tự do giải thoát nhờ an tịnh trong Đạo Quả ( patippassaddha-vimutti) và giải thoát nhờ giải thoát hoàn toàn (nissarana-vimutti).
H. “Tự do thông qua việc đình chỉ (Điều phục)” là gì?
A. Việc đình chỉ các chướng ngại (điều phục các triền cái) (nivarana) thông qua việc thực hành sơ thiền – điều này được gọi là “tự do nhờ việc tạm dừng ”các chướng ngại.
“Tự do khỏi tri kiến sai lầm”: thoát khỏi những quan điểm/ tri kiến/ hiểu biết sai lầm (ditthigata) nhờ thực hành định để dự phần tham gia vào sự sáng suốt (nibbedhabhagiya-samadhi)—điều này được gọi là “tự do khỏi các tri kiến đối nghịch.”
“Tự do nhờ đoạn trừ kiết sử”: sự tiêu diệt (khaya) và thoát khỏi những xiềng xích (Kiết Sử) thông qua thực hành con đường Xuất Thế Gian (Iokuttara-magga) – điều này được gọi là “tự do nhờ đoạn trừ”. [400a]
“Giải thoát nhờ an tịnh”: sự yên tĩnh và hạnh phúc khi người ta đạt được Quả theo đúng [với con đường]—điều này được gọi là “tự do nhờ an tịnh”.
“Giải thoát nhờ giải thoát”: Vô Dư Niết Bàn (anupadisosa-nibbana)—điều này được gọi là “giải thoát nhờ giải thoát”.
Con đường tự do này là để đạt được tự do. Nhờ giới hạnh, định lực và trí tuệ, con đường hoàn hảo này được gọi là “con đường giải thoát”.
Bây giờ tôi sẽ dạy con đường tự do. 400a04
Lý do dạy con đường tự do
Hỏi. Mục đích của việc giảng dạy con đường tự do là gì?
A. Có những người thiện lành muốn được giải thoát mà không được nghe lời dạy về giải thoát, không đi vào (không hiểu) con đường tự do giải thoát hoặc Hiểu sai (đi sai khỏi) con đường tự do giải thoát : Anh ta giống như một người mù đi một mình lang thang đến một vùng đất xa lạ mà không có người hướng dẫn. Anh ta chỉ bị phiền não bởi nhiều đau khổ và không thể đạt được tự do giải thoát. Mặc dù anh ta mong muốn đạt được tự do giải thoát nhưng anh ta lại không có những nguyên nhân/ nhân duyên (cần thiết). Tại sao? Bởi vì có những nguyên nhân/ nhân duyên dẫn đến tự do.' Như Đức Phật đã tuyên bố: “Có những chúng sinh có rất ít bụi [trong mắt họ]. Không nghe Pháp, họ sẽ sa đọa, thoái chuyển.” Đức Phật cũng tuyên bố: “Này các Tỳ kheo, có hai nhân, hai duyên cho sự sanh khởi của chánh kiến. Hai cái nào? Đầu tiên là nghe từ người khác nói. Thứ hai là tự mình chú ý hợp lý vào chính bản thân mình (tự mình có Chánh Niệm)." 53 400a10
Vì thế tôi dạy [con đường] tự do.
Đối với những người không đi vào [con đường] tự do, tôi dạy [con đường] tự do để tạo ra sự tỉnh ngộ (nibbida). Đối với những người lầm lạc khỏi [con đường] tự do, tôi dạy [ con đường] tự do để khiến họ từ bỏ con đường sai trái của những ham muốn và khiến họ đạt được các tầng thiền và con đường giải thoát. Nó giống như du khách đến một vùng đất xa xôi nhận được một người khéo hướng dẫn/ người chỉ đường tốt.
Ba Nhóm Giới, Định, Tuệ
Khi một người đi vào con đường giải thoát này, ba uẩn (khandha) sẽ được viên mãn. 4cloa14 Q.
Ba cái đó là gì?
A. Chúng là ba uẩn (khandha) gồm: đức uẩn (silakkhandha), định uẩn (sarnadhikkhandha) và tuệ uẩn (pannakkhandha). 54
Hỏi. “Đức uẩn” là gì?
A. Đó là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và các hành động tương tự/ bao gồm trong đó. Hay đức hạnh là sự tích lũy (Công Đức) (anisarnsa hay guna) của tất cả các hình thái đức hạnh đem lại.
Hỏi. “Định uẩn” là gì?
A. Đó là chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định và các hành động tương tự/ bao gồm trong đó. Hay định là sự tích lũy (Công Đức) của tất cả các hình thái Định mang lại.
Hỏi. “Tuệ uẩn” là gì?
A. Đó là chánh kiến, chánh tư duy và cvà các hành động tương tự/ bao gồm trong đó. Hay Tuệ là sự tích lũy (Công Đức) của tất cả các hình thái Trí Tuệ mang lại.
Như vậy ba uẩn này đã được viên mãn.
Một người bước vào Con Đường Giải Thoát nên rèn luyện ba sự rèn luyện, đó là: rèn luyện giới hạnh cao hơn (tăng thượng giới) (adhisi/asikkhd), rèn luyện tâm cao hơn (Tăng thượng Tâm) (adhicittasikkha), và rèn luyện trí tuệ cao hơn (Tăng Thượng Trí Tuệ) (adhiparinasikkha). (Tăng Thượng = Thêm Hơn)
Đức hạnh là rèn luyện đức tính cao hơn (tăng thượng giới); sự tập trung là sự rèn luyện tâm cao hơn (tăng thượng tâm); trí tuệ là sự rèn luyện của Sự Hiểu Biết cao hơn. (tăng thượng trí)56
Lại nữa," có giới là rèn luyện giới và cũng có giới là rèn luyện giới cao thượng. Có định là rèn luyện tâm và cũng có định là rèn luyện tâm cao thượng. Có trí tuệ là sự rèn luyện trí tuệ và cũng có trí tuệ là sự rèn luyện trí tuệ cao thượng.58
Hỏi: “Tu tập đức hạnh” (Giới học) là gì? 400a24
A. Giới học có nghĩa là rèn luyện đức hạnh để có được nhân duyên thuận lợi cho sự khác biệt/ tiến bộ tâm linh (visesabhagiya) 59 -Giới Học được gọi là “sự rèn luyện đức hạnh”thông thường. Tăng Thượng Giới Học (nibbedhabhagiya) — có nghĩa là “sự rèn luyện đức hạnh ở cấp cao hơn.”
Và lại nữa, Giới của phàm phu (người thường) (puthujjana) — điều này được gọi là “sự rèn luyện đức hạnh”thông thường. Giới của bậc Thánh nhân – đây được gọi là “sự rèn luyện đức hạnh ở cấp cao hơn.” (hay là Tăng Thượng Đức Hạnh)
H. “Luyện tâm” (citta-sikkhd) (Tâm Học) là gì?
A. Tâm Học đó là định liên quan đến giác quan (kamdvacara-samadhi). (Định Thuộc về cõi Dục Giới)
H. “Huấn luyện tâm cao thượng” (Tăng Thượng Tâm Học) (adhicitta-sikkhd) là gì?
A. Đó là định liên quan đến [cõi] vật chất (Sắc) (rdpavacara-samadhi) và [cảnh] phi vật chất (vô sắc giới) (ardpdvacara-samadhi). Đây được gọi là "sự rèn luyện tâm cao hơn". (Tăng Thượng Tâm Học)
Và một lần nữa, định đạt đến sự khác biệt (Định Tướng)62thì sẽ có “sự rèn luyện tâm”
Định tham gia vào sự thâm nhập (nhập định) và Định đạo (magga - samadhi) được gọi là "sự rèn luyện tâm ở cấp cao hơn."' (tăng Thượng tâm học)
H. “Rèn luyện trí tuệ” là gì? [400b]
A. Hiểu Biết về Thế Gian (Thế tục) —điều này được gọi là "luyện tập trí tuệ." Tuệ phù hợp (hướng về) với Tứ Thánh đế (saccanu/omika-nana) và Đạo tuệ (magga-nana) được gọi là “sự rèn luyện trí tuệ ở cấp cao hơn”.
Đức Thế Tôn đã thuyết giảng việc rèn luyện giới ở cấp cao hơn cho người có căn cơ kém cỏi, việc rèn luyện tâm ở cấp cao hơn cho người có căn cơ trung bình và việc rèn luyện trí tuệ ở cấp cao hơn cho người có căn cơ nhạy bén. 64
H. Ý nghĩa của từ “rèn luyện” (Học) là gì?
A. "Học" là Đào tạo về những gì cần học, Tăng thượng học là rèn luyện (học) ở cấp độ cao hơn những gì cần phải học và Học "Vô Học" (Vượt cao hơn 2 cấp độ trước) là học về những gì cần được đào tạo (học) mà không trong chương trình rèn luyện thì gọi là "Như Thị Học."' (Học để thấy như thật)
Như vậy sự rèn luyện trọn vẹn trong ba cấp này thì được gọi là học “đi trên con đường giải thoát”. 400b05
Thông qua ba loại rèn luyện này một cách rốt ráo (Hoàn thiện), người ta đạt được sự thanh tịnh, đó là giới thanh tịnh (sila-visuddhi), tâm thanh tịnh (citta-visuddhi), và tri kiến thanh tịnh (ditthi-visuddhi). Như vậy giới là đức hạnh thanh tịnh, định là tâm thanh tịnh, và trí tuệ là tri kiến thanh tịnh.
Giới đức tẩy sạch vết nhơ của phẩm hạnh kém cỏi (dussilamala) 66 [—điều này được gọi là “sự thanh tịnh của đức hạnh.”] Định tẩy sạch vết nhơ của những ám ảnh/ triền cái/ chướng ngại tinh thần (pariyutthana)—điều này được gọi là “tâm thanh tịnh .” Trí tuệ loại bỏ vết nhơ của vô minh—điều này được gọi là “sự thanh tịnh của cái thấy.” (tri kiến thanh tịnh) 67
Và một lần nữa, đức hạnh xóa bỏ vết nhơ của hành động xấu xa (ác nghiệp). Sự tập trung xóa bỏ vết nhơ của những ám ảnh (triền cái). Trí tuệ loại bỏ vết nhơ của những khuynh hướng tiềm ẩn. (Kiết sử) 68
Như vậy, qua ba lần thanh lọc, người ta bước vào con đường giải thoát.” 400b11
Ba điều tốt lành (ba điều thiện)
Lại nữa, người ta đi trên con đường [tự do] qua ba điều thiện lành: điều thiện ban đầu (sơ khởi), điều thiện trung gian (trung thiện) và điều thiện cuối cùng (adi - , majjha-, pariyosana-kalyana). Qua đức hạnh có điều thiện ban đầu (sơ khởi) ; thông qua sự tập trung có lợi ích/ điều thiện trung gian (ở giữa); nhờ trí tuệ mới có được điều tốt cuối cùng.
Hỏi: Tại sao đức hạnh là “điều thiện ban đầu” (sơ khởi)?
A. Một người có nghị lực ( thói quen tinh tấn tu hành đến mức không thối chuyển) sẽ không hối hận; do không hối hận nên có hoan hỷ; vì vui mừng (hoan hỷ) nên có lạc; nhờ lạc nên thân được an tịnh; 400b14 do thân an tịnh nên có hạnh phúc; vì hạnh phúc nên tâm tập trung – đây gọi là “điều tốt ban đầu”.
“Định là thiện ích trung gian” (ở giữa) nghĩa là: Nhờ định lực mà có tri kiến đúng như thực tại (yathabhata-fianadassana) – điều này được gọi là “điều thiện ở giữa (trung gian)”. 400b15
“Trí tuệ là điều thiện cuối cùng” nghĩa là: đã biết và thấy đúng như thực tế thì có vỡ mộng/ hết mê muội; qua sự hết mê muội (thức tỉnh) (nibbida) có sự thản nhiên/ không dính mắc/ vô dục; nhờ vô dục (viraga), có tự do; nhờ tự do mà có trí tuệ cá nhân (paccatta liana). 71
Như vậy người ta đạt được (thành tựu) con đường của ba điều thiện lành.
Ba loại hạnh phúc (ba niềm vui)
Khi một người đã đi trên Con Đường Giải Thoát, người ấy đạt được ba loại hạnh phúc: hạnh phúc của sự vô tội, hạnh phúc của sự tĩnh lặng và hạnh phúc của Thức Tỉnh (giác ngộ).' Nhờ đức hạnh người ta đạt được hạnh phúc vô tội (hạnh phúc vì biết mình chẳng lỗi lầm); nhờ tập trung người ta đạt được hạnh phúc của sự tĩnh lặng; và nhờ trí tuệ người ta đạt được hạnh phúc của Thức Tỉnh (Giác ngộ).
Như vậy người ta đạt được và có được ba loại hạnh phúc. 400b20
Con Đường Trung Đạo
Khi một người bước vào Con Đường Giải Thoát và tránh xa hai cực đoan, người đó đạt đến con đường trung đạo (mailhima patipada). 73. Nhờ đức hạnh thiện lành (Đức Hạnh về Giới), người ta từ bỏ việc theo đuổi dục lạc ( kamasuhallikanuyoga). Nhờ niềm hạnh phúc vô tội (thấy mình chẳng lỗi lầm) người ta khơi dậy niềm hỷ lạc (mừng vui) .” Nhờ định, người ta từ bỏ sự mệt mỏi dai dẳng của chính cơ thể mình (attakilamamathanuyoga). Nhờ niềm hạnh phúc của sự tĩnh lặng người ta làm tăng thêm hỷ lạc. Nhờ trí tuệ, người ta hiểu được Tứ Diệu Đế và con đường trung đạo. Nhờ niềm hạnh phúc của Thức Tỉnh (Giác Ngộ) người ta trân trọng và tận hưởng sâu sắc.' Như vậy, tránh được hai thái cực, người ta đạt đến con đường giữa/ con đường trung đạo một cách đầy đủ. 400b25
Khi đi trên con đường giải thoát, nhờ đức hạnh người ta từ bỏ những ác thú (duggati) (trừ bỏ đường ác); nhờ định, người ta từ bỏ cõi dục lạc (kamavacara) (trừ bỏ niềm vui giác quan/ trừ bỏ dục giới); và nhờ trí tuệ người ta từ bỏ mọi hiện hữu (trừ bỏ mọi tái sanh luân hồi). 76
Nếu một người tu nhiều giới và ít tu tập định và trí tuệ, người đó sẽ thành tựu Nhập Lưu hoặc Một Lần Trở Lại (Tu- đà - hườn; Tư-đà-hàm) . ” Nếu một người tu nhiều giới hạnh và thiền định và ít tu tập trí tuệ, người ấy thành tựu Bất lai (A-na-hàm). 78 Nếu một người thực hành đầy đủ giới hạnh, định và tuệ, thì người đó sẽ thành tựu quả vị A-la-hán (Arahant), sự tự do tối thượng (giải thoát cao thượng).'